TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯỚNG HOÁ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2020/TLST-HS ngày 14/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2020/QĐXXST-HS ngày 17/9/2020, đối với các bị cáo:
1. Trần Trọng M, sinh ngày 11/6/1985 tại huyện P, tỉnh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 11/12; Nơi cư trú: Phường A, thành phố H, tỉnh H; Con ông: Con ông Trần Hữu D và bà Hồ Thị A (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Kim O và 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/4/2020 đến ngày 11/4/2020; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.
2. Lê Mậu L, sinh ngày 10/5/1982 tại huyện Triệu Phong, tỉnh Q; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:Không; nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Nơi cư trú: khóm T, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q; Con ông: Lê Mậu S và bà Cao Thị D (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H và 02 con; lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Tại Bản án số 27/2017/HSST ngày 07/9/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự 1999 đã thi hành xong vào ngày 23/01/2018.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/4/2020 đến ngày 11/4/2020; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1964; trú tại: khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
+ Người làm chứng:
Anh Phạm Xuân Đ, sinh năm 1979; nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
Anh Trần Xuân D, sinh năm 1980; nơi cư trú: khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
Anh Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1984; nơi cư trú: khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
Anh Nguyễn Đức L, sinh năm 1987; nơi cư trú: khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
Anh Hoàng Văn T2, sinh năm 1979; nơi cư trú: khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/4/2020, tại nhà ông Nguyễn Đức T ở khóm V, thị trấn L, huyện H, tỉnh Q, Nguyễn Đức L, sinh năm 1987 (là con trai ông T) tổ chức ăn nhậu (uống bia, rượu) và mời một số bạn bè tham gia gồm: Trần Trọng M, Trần Quốc Tuấn, Trần Xuân D, Phạm Xuân Đ và một số người khác.
Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Trần Trọng M và một số người không tham gia nhậu nữa mà rủ nhau đi vào phòng ngủ ở tầng 1 nhà ông T để đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Xì tẩy” thắng thua bằng tiền.
Hình thức đánh bài “Xì tẩy” mà M và hai người đàn ông nói trên đánh với nhau như sau: sử dụng 28 quân bài tú lơ khơ từ quân bài 8 đến quân bài A và giá trị các quân bài theo thứ tự từ nhỏ đến lớn là 8, 9,10, J, Q, K, A. Ban đầu mỗi người chơi được chia 02 quân bài gồm 01 quân bài úp (quân bài “ẩm”) và 01 quân bài ngửa, người nào có quân bài ngửa lớn nhất sẽ đặt cược tiền vòng đầu tiên (gọi là tiền mậu) và lượt cược của những người chơi lần lượt theo vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ. Người chơi sau có sự lựa chọn úp bỏ bài, theo hoặc “tố” (úp bỏ bài là không tham gia chơi ván đó nữa, theo là đặt cược số tiền bằng số tiền người chơi trước đã cược và “tố” là đặt cược số tiền lớn hơn số tiền người chơi trước đã cược). Quân bài thứ 3, thứ 4 và thứ 5 đều được chia ngửa và chia đều cho người chơi, cách thức đặt cược tiền theo cách thức như trên. Sau khi cá cược trong vòng thứ 4 thì lá bài úp (bài ẩm) được lật ngửa ra và các tay bài tham gia so bài với nhau, người nào có bài lớn nhất thì người đó thắng, trong trường hợp chỉ còn một người chơi chưa bỏ cuộc thì người đó thắng ván bài đó. M và hai người chơi quy định với nhau: Tiền mậu (đặt cược vòng 1) và tiền tố (đặt cược các vòng tiếp theo) tối thiểu là 50.000 đồng, tối đa là 2.000.000 đồng.
Một ván bài “xì tẩy” được quy ước thắng thua thứ tự lần lượt như sau:
- Lớn nhất là “tứ quý” tức là có 04 quân bài giống nhau và 01 quân bài khác.
- Thứ hai là “phi ly” (thùng) tức là có 05 quân bài cùng một nước với nhau (như cơ, rô, chuồn hoặc bích).
- Thứ ba là “suốt” (sảnh) tức là có 05 quân bài tạo thành một dãy liên tục từ 10 đến A.
- Thứ tư là “xẩu” (cù lủ) tức là có 03 quân bài giống nhau và 02 quân bài giống nhau (một sam và một đôi), đối với “xẩu” thì “xẩu” A là lớn nhất, lần lượt giảm dần theo thứ tự “xẩu” K, Q, J, 10, 9, 8.
- Thứ năm là „sam” (sam cô) tức là có 03 quân bài giống nhau và 02 quân bài còn lại khác nhau, đối với “sam” thì “sam” A là lớn nhất và nhỏ nhất là “sam” 8.
- Thứ sáu là “hai đôi” (thú) tức là có 02 cặp quân bài giống nhau, đối với “hai đôi” thì đôi A là lớn nhất và nhỏ nhất là đôi 8, nếu trường hợp hai người chơi có một đôi giống nhau thì so đôi còn lại để xác định thắng thua.
- Thứ bảy là “một đôi” tức là có 02 quân bài giống nhau, đối với “một đôi” thì đôi A là lớn nhất và nhỏ nhất là đôi 8.
- Thứ tám là “mậu thầu” tức là có 05 quân bài không giống nhau, không cùng một nước, đối với “mậu thầu” thì quân bài A được tính lớn nhất và lần lượt giảm dần theo thứ tự K, Q, J, 10, 9, 8; nếu trường hợp các tay bài tham gia có “mậu thầu” quân bài lớn nhất bằng nhau thì so quân bài thứ 2 và lần lượt đến quân bài nhỏ nhất.
Trong trường hợp có 02 hoặc nhiều hơn những người chơi bằng nhau và cùng thắng cuộc thì số tiền cược được chia đều cho những người này.
Khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, Lê Mậu L đến nhà ông Nguyễn Đức T chơi thì nhìn thấy Trần Trọng M cùng hai người đàn ông đang đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Xì tẩy” thắng thua bằng tiền tại phòng ngủ ở tầng 1 nhà ông T nên L cũng vào tham gia đánh bạc cùng những người đó.
Đến 21 giờ 10 phút cùng ngày, lực lượng Công an thị trấn Lao Bảo phối hợp Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo và Đội Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Q kiểm tra, phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 18.400.000 đồng và một số dụng cụ dùng để đánh bạc. Quá trình bắt quả tang 02 đối tượng không rõ tên cùng tham gia đánh bạc nói trên đã bỏ chạy.
Quá trình điều tra đã thu giữ:
- 01 cái chăn có hoa văn nhiều màu, kích thước 2m x 2m, đã qua sử dụng - 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 10cm, trên đĩa có dòng chữ “ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn H”, đã qua sử dụng.
- 28 quân bài tú lơ khơ (từ quân bài 8 đến quân bài A) - Số tiền 18.400.000 đồng Tại bản cáo trạng số: 62/CT- VKSHH ngày 11 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Trần Trọng M và Lê Mậu L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
- Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hoá giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Trọng M.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Mậu L.
Xử phạt Trần Trọng M từ 10 đến 20 triệu đồng Xử phạt Lê Mậu L từ 25 đến 30 triệu đồng.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;
điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy 01 cái chăn có hoa văn nhiều màu, kích thước 2m x 2m, đã qua sử dụng; 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 10cm, trên đĩa có dòng chữ “ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn H”, đã qua sử dụng;
28 quân bài tú lơ khơ (từ quân bài 8 đến quân bài A), là tài sản của ông Nguyễn Đức T, ông T không biết các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và tài sản đã cũ không còn giá trị sử dụng nên ông T không yêu cầu nhận lại.
- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 18.400.000 đồng là số tiền bị thu giữ tại chiếu bạc.
Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo Trần Trọng M và Lê Mậu L đều thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố; mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định:
Ngày 09/4/2020, tại nhà ông Nguyễn Đức T, khóm V, thị trấn L, huyện H; Trần Trọng M, Lê Mậu L cùng hai người đàn ông khác (không xác định được lai lịch) có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh bài “xì tẩy” thắng thua bằng tiền, với tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc 18.400.000 đồng. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò và hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Hành vi của các bị cáo thực hiện đã làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến cuộc sống trong cộng đồng dân cư. Các bị cáo thực hiện tội phạm trong thời gian cả nước đang quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chóng dịch COVID- 19 theo chi thị 15/CT –TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ nên cần xử nghiêm mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
Vai trò của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo đều cố ý cùng thực hiện một tội phạm, không xác định được ai là người chủ động rủ rê khởi xướng việc phạm tội; vai trò của các bị cáo chỉ là người thực hành, không có sự cấu kết chặt chẽ nên các bị cáo là đồng phạm trong vụ án nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng M và Lê Mậu L thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo Trần Trọng M phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Mẹ của bị cáo Lê Mậu L được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; Gia đình của bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ bị cáo đã mất, vợ bị cáo chưa có công việc ổn định, bị cáo là lao động chính trong gia đình, lại đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc bà nội 98 tuổi nên bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo M có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật quy định cũng đủ răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.
Đối với bị cáo Lê Mậu L có nhân thân xấu, ngày 07/9/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự 1999 đã thi hành xong vào ngày 23/01/2018. Bị cáo không lấy đó làm bài học mà mà còn tiếp tục phạm tội nên cần xử phạt mức án cao hơn bị cáo Trần Trọng M là thỏa đáng.
Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, tội Đánh bạc là loại tội phạm xâm phạm trật tự công cộng nên cần áp dụng khoản 1 Điều 35 của Bộ luật hình sự để xử phạt tiền là hình phạt chính đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, để từ đó tạo điều kiện cho các bị cáo cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.
[4] Đối với vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy 01 cái chăn có hoa văn nhiều màu, kích thước 2m x 2m, đã qua sử dụng; 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 10cm, trên đĩa có dòng chữ “ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn H”, đã qua sử dụng;
28 quân bài tú lơ khơ (từ quân bài 8 đến quân bài A) là của ông Nguyễn Đức T, ông T không biết các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và tài sản không còn giá trị sử dụng nên ông T không yêu cầu nhận lại.
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 18.400.000 đồng là số tiền bị thu giữ tại chiếu bạc.
Vật chứng liên quan đến vụ án hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q quản lý theo biên bản giao nhận ngày 16/9/2020
[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[6] Vấn đề khác: Quá trình điều tra xác minh ông Nguyễn Đức T và con trai Nguyễn Đức L không có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc cho các bị cáo mượn tài sản, thuê địa điểm và không thu lợi từ việc đánh bạc, nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
Hai đối tượng tham gia đánh bạc cùng Trần Trọng M và Lê Mậu L đã bỏ chạy trong quá trình bắt quả tang: căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả nhận dạng, đối chất và tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, không đủ cơ sở xác định người đã tham gia đánh bạc cùng M và L tại thời điểm đó; cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ hai đối tượng này nên HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Trọng M.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Mậu L.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn Cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Trọng M và Lê Mậu L phạm tội “Đánh bạc”;
Xử phạt bị cáo Trần Trọng M số tiền 17.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Lê Mậu L số tiền 27.000.000 đồng 2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 cái chăn có hoa văn nhiều màu, kích thước 2m x 2m, đã qua sử dụng; 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 10cm, trên đĩa có dòng chữ “ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn H”, đã qua sử dụng; 28 quân bài tú lơ khơ (từ quân bài 8 đến quân bài A); Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 18.400.000 đồng là số tiền bị thu giữ tại chiếu bạc.
Vật chứng liên quan đến vụ án hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q quản lý theo biên bản giao nhận ngày 16/9/2020 3. Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Trọng M, Lê Mậu L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội đánh bạc số 60/2020/HS-ST
Số hiệu: | 60/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hướng Hóa - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về