TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 56/2020/HS-PT NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 33/2020/TLPT-HS ngày 27/3/2020 đối với các bị cáo Trần H, Phan T do có kháng cáo của các bị cáo Trần H, Phan T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2020/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Trần H, sinh ngày 14/8/1983 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần N và bà Trần Thị C; có vợ là chị Trương Thị M và có 02 đứa con (đứa lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014); tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 19/10/2018 bị Công an huyện Bố Trạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (chấp hành xong hình phạt ngày 26/11/2018); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/10/2019 đến ngày 08/11/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.
2. Phan T, sinh ngày 17/3/1985, tại huyện B, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan H và bà Trần Thị L; có vợ là Nguyễn Thị T và có 01 đứa con sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 19/10/2018 bị Công an huyện Bố Trạch xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (chấp hành xong hình phạt ngày 26/11/2018); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/10/2019 đến ngày 08/11/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.
Trong vụ án này còn có các bị cáo Nguyễn Chí T, Doãn Văn Q, Cao V, Nguyễn T, Nguyễn Th, Nguyễn A cùng tham gia đánh bạc với Trần H và Phan T nhưng không có kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo của Trần H và Phan T nên Toà án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 50 phút, ngày 29/10/2019, tại nhà anh Nguyễn Văn H, ở tại Thôn B, xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình, Công an huyện Bố Trạch đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang các đối tượng gồm: Nguyễn Chí T, Doãn Văn Q, Phan T, Nguyễn T, Cao V, Nguyễn A, Nguyễn Th và Trần H đang cùng nhau đánh bài ăn tiền, với hình thức cào lật (Không tố), mức cược mỗi người trong mỗi ván đánh là 50.000 đồng, người cao điểm nhất sẽ thắng cuộc và được chia bài ở ván tiếp theo, mỗi người chơi được chia 03 quân bài và quy ước cách tính điểm là tổng số điểm của 03 quân bài trên tay, lớn nhất là 09 điểm, trường hợp ván đánh có điểm ngang bằng nhau thì tính theo chất của các quân bài theo thứ tự từ “Cơ đến rô, chuồn, bích”; Sam là ba quân bài giống nhau tạo thành (888, KKK…), lớn nhất là Sam Xì (A); Liêng là có 03 quân bài liên tiếp theo thứ tự tăng dần (678, JQK…), lớn nhất là QKA. Số tiền mà các đối tượng dùng để đánh bạc được thu giữ tại hiện trường là 19.600.000 đồng. Trong đó số tiền cụ thể của từng người là: Nguyễn Chí T khoảng 3.500.000 đồng, Phan T khoảng 1.500.000 đồng, Trần H khoảng 2.000.000 đồng, Doãn Văn Q khoảng 1.700.000 đồng, Cao V khoảng 2.200.000 đồng, Nguyễn T khoảng 4.000.000 đồng, Nguyễn A khoảng 2.600.000 đồng và Nguyễn Th khoảng 2.800.000 đồng.
Cáo trạng số: 07/CT- VKSBT ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố các bị cáo Trần H, Nguyễn Chí T, Phan T, Cao V, Doãn Văn Q, Nguyễn T, Nguyễn Th và Nguyễn A về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2020/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm s, i khoản 1 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Nguyễn Chí T, Phan T, Doãn Văn Q, Nguyễn T, Nguyễn Th và Nguyễn A; áp dụng các điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS đối với Trần H; áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đối với Cao V; áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS đối với Doãn Văn Q; áp dụng thêm Điều 54 BLHS đối với Phan T; áp dụng Điều 35 BLHS đối với các bị cáo Nguyễn Chí T, Doãn Văn Q, Nguyễn T và Nguyễn A; áp dụng Điều 36 BLHS đối với Cao V và Nguyễn Th; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 và Điều 106 BLHS, Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
-Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần H, Nguyễn Chí T, Phan T, Cao V, Doãn Văn Q, Nguyễn T, Nguyễn Th và Nguyễn A phạm tội “Đánh bạc”.
- Về hình phạt:
+ Phạt bị cáo Trần H và Phan T mỗi bị cáo 04 tháng tù (Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày các bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời hạn các bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/10/2019 đến ngày 08/11/2019).
+ Phạt bị cáo Cao V và Nguyễn Th mỗi bị cáo 09 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 27 ngày (9 ngày tạm giữ x 3 = 27 ngày).
+ Phạt các bị cáo Nguyễn Chí T, Doãn Văn Q, Nguyễn T và Nguyễn A mỗi bị cáo 20.000.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 02/3/2020, bị cáo Trần H kháng cáo xin được cải tạo không giam giữ tại địa phương.
Ngày 03/3/2020 bị cáo Phan T kháng cáo xin được cải tạo không giam giữ tại địa phương.
Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo Trần H, Phan T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung của bản án sơ thẩm. Các bị cáo không kháng cáo về tội danh mà chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.
- Bị cáo Trần H trình bày: Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có 02 con còn nhỏ, vợ không có việc làm; cả bố và mẹ đều là người có công với nước (bố ông Trần N được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sĩ vẽ vang, mẹ bà Trần Thị C được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất); đặc biệt là bị cáo đã có hai lần cứu sống hai em nhỏ bị đuối nước.
- Bị cáo Phan T trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ như hiện tại con bị cáo còn nhỏ, vợ đang mang bầu đứa thứ hai, sức khỏe ốm yếu nên không đi làm được; bị cáo là trụ cột, lao động chính trong gia đình; ông bà nội của bị cáo đều là người có công với cách mạng (ông Nội được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng 3, Bằng khen trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bà Nội được tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng vào năm 2014); bố bị cáo (ông Phan H) được Bộ trưởng Bộ Công an tặng kỷ niệm chương bảo vệ an ninh tổ quốc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần H và bị cáo Phan T để sửa án sơ thẩm, phạt mỗi bị cáo 12 tháng cải tạo không giam giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần H, Phan T tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung của bản án sơ thẩm; các bị cáo Trần H, Phan T cùng 06 bị cáo khác là Nguyễn Chí T, Doãn Văn Q, Cao V, Nguyễn T, Nguyễn Th, Nguyễn A đã có hành vi đánh bạc tại nhà anh Nguyễn Văn H đã bị Công an huyện Bố Trạch phát hiện bắt quả tang thu giữ tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 19.600.000 đồng và 01 bộ bài tú lơ khơ màu đỏ (52 quân). Như vậy, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch tuyên bố bị cáo Trần H, Phan T (Và 6 bị cáo khác) phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo Trần H, Phan T:
Trong vụ án này các bị cáo tham gia đánh bạc với vai trò đồng phạm (không có người tổ chức, cầm đầu); số lượng tiền mà tất cả các bị cáo sử dụng để đánh bạc không lớn (19.600.000 đồng), trong đó tiền của bị cáo H sử dụng để đánh bạc là 2.000.000 đồng và bị cáo T là 1.500.000 đồng. Tòa án sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xem xét đến nhân thân của các bị cáo (bị cáo H và bị cáo T đều đang có 01 tiền sự, bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc) để xử phạt bị cáo H và bị cáo T mức án 04 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ do các bị cáo xuất trình tại giai đoạn phúc thẩm thì Hội đồng xét xử thấy rằng:
- Đối với bị cáo Trần H: Tòa án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã lập công chuộc tội (cung cấp thông tin cho Cơ quan điều tra để khởi tố, điều tra một vụ án khác); vào ngày 3/9/2019 bị cáo đã nhặt được 01 chiếc ví của một du khách nước ngoài (trong đó có 7,2 triệu VNĐ, 02 điện thoại di động, một số ngoại tệ và giấy tờ tùy thân khác), bị cáo đã thông báo trên mạng xã hội và trình báo UBND xã C, sau đó du khách nước ngoài đã đến nhận lại tài sản (đã được đưa tin trên báo Quảng Bình); bố, mẹ bị cáo là người có công với Nước. Ngoài những tình tiết trên, bị cáo H cung cấp thêm tình tiết mới tại giai đoạn phúc thẩm như: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ (đứa lớn sinh năm 2012, đứa nhỏ sinh năm 2014), vợ không không có việc làm, bản thân bị cáo là lao động chính trong nhà. Đặc biệt vào ngày 25/02/2018 bị cáo H đã trực tiếp cứu sống cháu Nguyễn Q - sinh năm 2008 (ở thôn T, xã C ) đi tắm hồ bị đuối nước, và ngày 18/3/2020 bị cáo H tiếp tục cứu sống cháu C - sinh năm 2012 (ở thôn T, xã C) đi tắm hồ bị đuối nước (có xác nhận của gia đình cháu Q, cháu C và chính quyền địa phương).
- Đối với bị cáo Phan T: Ngoài tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo như “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, thì tại giai đoan phúc thẩm bị cáo T xuất trình các tài liệu thể hiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ (sinh năm 2016), vợ đang mang bầu đứa thứ hai và thường xuyên đau ốm, không đi lại được, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương); ngoài ra bị cáo có bố (ông Phan H) đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc nên được tặng “Kỷ niệm chương bảo vệ an ninh tổ quốc”, ...
Xét thấy bị cáo Trần H và Phan T đều có thêm tình tiết giảm nhẹ mới tại giai đoạn phúc thẩm; các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đều là lao động chính trong gia đình; xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội. Do đó cần chấp nhận kháng cáo để sửa án sơ thẩm, chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt cải tạo không giam giữ cho các bị cáo. Các bị cáo đều là nông dân, không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ thu nhập.
[3]. Về án phí: Bị cáo Trần H, Phan T kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần H và bị cáo Phan T, sửa phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Trần H và bị cáo Phan T như sau:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự đối với cả hai bị cáo Trần H, Phan T; áp dụng thêm điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần H, áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan T.
+ Phạt bị cáo Trần H 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, được trừ 27 ngày (Thời gian quy đổi từ 9 ngày bị tạm giữ, mỗi ngày bị tạm giữ bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ), còn lại 11 tháng 3 ngày buộc bị cáo H phải chấp hành. Thời gian cải tạo không giam giữ của bị cáo H được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã V, huyện B nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.
+ Phạt bị cáo Phan T 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, được trừ 27 ngày (Thời gian quy đổi từ 9 ngày bị tạm giữ, mỗi ngày bị tạm giữ bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ), còn lại 11 tháng 3 ngày buộc bị cáo T phải chấp hành. Thời gian cải tạo không giam giữ của bị cáo T được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã C, huyện B nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.
Giao bị cáo Trần H cho Ủy ban nhân dân xã V và giao bị cáo Phan T cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Quảng Bình để giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
2. Bị cáo Trần H và bị cáo Phan T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (22/5/2020).
Bản án về tội đánh bạc số 56/2020/HS-PT
Số hiệu: | 56/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về