Bản án về tội đánh bạc số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Th, sinh ngày 06 tháng 3 năm 1989 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Giáo viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đức C (sinh năm 1961) và bà: Nguyễn Thị Thanh T (sinh năm 1962) hiện làm nông cùng trú thôn Hội Khánh Tây, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; gia đình có 6 anh em, bị cáo là con thứ 4; bị cáo đã ly hôn, có 02 con: con lớn sinh năm 2009 (sống với cha) và con nhỏ sinh năm 2014 (sống với bị cáo); tiền án: không; tiền sự: ngày 16/01/2023 bị cáo Th bị Công an xã S, huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với hình thức phạt tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng, chấp hành xong quyết định xử phạt ngày 16/01/2023; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Võ Văn D, sinh ngày 03 tháng 10 năm 1972 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: nhà báo; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ N (đã chết), con bà: Nguyễn Thị T (đã chết). Gia đình có 8 anh em, bị can là con thứ 7; vợ: Trịnh Thị Th (sinh năm 1971, hiện buôn bán và trú tại Thôn A, Bình Tú, huyện T, tỉnh Quảng Nam); bị cáo có 02 con sinh năm 1994 và 1996; tiền án: không; tiền sự: ngày 25/02/2022, bị cáo D bị Công an xã B, huyện T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với hình thức phạt tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng,chấp hành xong quyết định xử phạt ngày 10/3/2022; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1982

2. Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1974

3. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990

4. Anh Trương Văn Q, sinh năm 1991

5. Chị Quách Thị Phượng Tr, sinh năm 1994

6. Ông Nguyễn Khắc V, sinh năm 1980

7. Ông Phan Văn Th, sinh năm 1981

8. Anh Võ Đình Anh Qu, sinh năm 1998

9. Ông Phan Ngọc Tr, sinh năm 1984

10. Bà Trần Thị Th, sinh năm 1963

11. Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1996

Cùng trú tại: Thôn H, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam

12. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971

Trú tại: Thôn Tân Đợi, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam

13. Anh Nguyễn Thành Tr, sinh năm 1989

Trú tại: Thôn Hội Khách Đông, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam

- Người làm chứng: Chị Võ Nhật Tú A, sinh ngày 29/4/2005

Trú tại: Thôn H, xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam

(Bà C, anh H, chị Tr, anh Q, ông Tr, bà T có mặt; bà Th, anh Q, ông V, ông Th, bà Th, chị H, anh Tr, chị A vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 08/02/2023, Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D, Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Thị Kim T, Nguyễn Văn H, Trương Văn Q, Quách Thị Phượng Tr (cùng trú thôn Hội Khánh Tây, xã S, huyện Đ) đến quán cơm của Nguyễn Thị T tại thôn Tân Đợi, xã S, huyện Đ để chơi. Đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày thì rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài xì dách (xì lát) được thua bằng tiền mặt. Đến khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày, các đối tượng trên rủ nhau chuyển sang chơi xóc đĩa được thua bằng tiền, quá trình chơi thì có Nguyễn Khắc V, Phan Văn Th, Võ Đình Anh Qu, Phan Ngọc Tr, Trần Thị Thu H, Trần Thị Th (cùng trú thôn Hội Khánh Tây, xã S, huyện Đ), Nguyễn Thành Tr (trú Hội Khánh Đông, xã S, huyện Đ), đến cùng tham gia. Khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, trong lúc các đối tượng đang chơi xóc đĩa thì Công an xã S kiểm tra phát hiện, lập biên bản và thu giữ tổng số tiền 1.781.000 (Một triệu bảy trăm tám mươi mốt ngàn) đồng, 01 bộ bài tú-lơ-khơ 52 lá; một bộ chén, dĩa bằng sứ, màu trắng; một kéo bằng kim loại, dài 15cm; 02 quân vị bằng giấy, hình tròn, đường kính 1,5cm.

Khi tham gia đánh bạc, Võ Văn D sử dụng số tiền 500.000 (Năm trăm ngàn) đồng dùng đánh bạc đã thua 100.000 (Một trăm ngàn) đồng, số tiền còn lại 400.000 (Bốn trăm ngàn) đồng và tự giao nộp cho Cơ quan Công an; Nguyễn Thị Kim Th sử dụng số tiền 500.000 (Năm trăm ngàn) đồng dùng đánh bạc đã thua 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng, số tiền còn lại 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tự giao nộp cho Cơ quan Công an.

Kết quả điều tra, xác minh thể hiện:

Võ Văn D đã bị Công an xã B, huyện T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPHC ngày 25/02/2022 với hình thức phạt tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”, chấp hành xong quyết định ngày 10/3/2022.

Nguyễn Thị Kim Th đã bị Công an xã S, huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPHC ngày 16/01/2023 với hình thức phạt tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”, chấp hành quyết định ngày 16/01/2023 Đến thời điểm ngày 08/02/2023, Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D không được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).

Vật chứng của vụ án:

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: tổng số tiền 1.781.000 đồng, gồm 861.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc và 920.000 đồng tạm giữ của các đối tượng dùng để đánh bạc. (hiện đã được gửi tại Kho bạc nhà nước huyện Đ).

- 01 bộ bài tú-lơ-khơ 52 lá; một bộ chén, dĩa bằng sứ, màu trắng; một kéo bằng kim loại, dài 15cm và 02 quân vị bằng giấy, hình tròn, đường kính 1,5cm (đã được niêm phong).

Tại cáo trạng số 47/CT-VKSĐL ngày 31/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và khung hình phạt, đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D mỗi bị cáo từ 06 (Sáu) đến 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao các bị cáo về cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo; do các bị cáo là lao động chính nên không phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th, Võ Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, cho các bị cáo hưởng án treo.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo không bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình mà đã được Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phổ biến về quyền, nghĩa vụ của mình trong từng giai đoạn tố tụng và tự khai báo về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xác định hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về tội danh và khung hình phạt:

Về hành vi khách quan: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản kiểm tra, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D đều là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Đến thời điểm tối ngày 08/02/2023 thì chưa đủ 01 năm kể từ ngày các bị cáo chấp hành xong quyết định xử phạt nên không được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) nhưng các bị cáo Th và Diện lại tiếp tục đánh bạc ăn thua bằng tiền tại quán cơm của bà Nguyễn Thị T (ở thôn Tân Đợi, xã S, Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 1.781.000 (Một triệu bảy trăm tám mươi mốt ngàn) đồng.

Hành vi của các bị cáo Th và Diện thực hiện ngày 08/02/2023 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ của hành vi, hậu quả do các bị cáo gây ra:

Các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D đều là người trưởng thành, hiểu biết pháp luật, biết rằng hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này nhưng các bị cáo không ăn năn hối cải mà tiếp tục đánh bạc thắng thua bằng tiền nhằm thu lợi bất chính. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý công cộng và an toàn xã hội trên địa bàn xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Các bị cáo giữ vai trò thực hành trong vụ án đồng phạm giản đơn. Do đó cần phải nghiệm trị các bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội và ngăn ngừa tội phạm.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th, Võ Văn D không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội và tỏ ra biết ăn năn, hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[2.4]. Xét các bị cáo Th và Diện có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, có khả năng tự cải tạo và việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 để cho các bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát và giáo dục là phù hợp.

[2.5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Th là giáo viên, bị cáo D là nhà báo, có thu nhập nên cần áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.

[3] Về vật chứng: Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu số tiền 1.781.000 (Một triệu bảy trăm tám mươi mốt ngàn) đồng là tiền dùng vào việc đánh bạc để sung công quỹ Nhà nước.

- 01 bộ bài tú-lơ-khơ 52 lá; một bộ chén, dĩa bằng sứ, màu trắng; một kéo bằng kim loại, dài 15cm và 02 quân vị bằng giấy, hình tròn, đường kính 1,5cm.

[4] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Thị Kim T, Võ Đình Anh Qu, Nguyễn Khắc V, Trần Thị Th, Nguyễn Văn H, Trương Văn Q, Phan Ngọc Tr, Phan Văn Th, Quách Thị Phượng Tr, Trần Thị Thu H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thành Tr có hành vi đánh bạc trái phép nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an xã S và Công an huyện Đ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép là phù hợp.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D phạm tội “Đánh bạc”

2. Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim Th 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 22/8/2023.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Kim Th cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Xử phạt: Bị cáo Võ Văn D 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 22/8/2023.

Giao bị cáo Võ Văn D cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2019).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th, Võ Văn D mỗi bị cáo số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng.

3. Về vật chứng vụ án: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tuyên:

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.781.000 (Một triệu bảy trăm tám mươi mốt ngàn) đồng sử dụng vào việc đánh bạc, được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ nộp vào tài khoản số 3949.0.1053629 mở tại Kho Bạc Nhà nước Đại Lộc theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/7/2023.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tú-lơ-khơ 52 lá; một bộ chén, dĩa bằng sứ, màu trắng; một kéo bằng kim loại, dài 15cm và 02 quân vị bằng giấy, hình tròn, đường kính 1,5cm (Vật chứng được niêm phong, hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ quản lý) 4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị Kim Th và Võ Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm. Đối với nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Giang - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về