Bản án về tội đánh bạc số 441/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 441/2023/HS-PT NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 240/2023/HS-PT ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo Sằng Vòng S, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Thị Mai H, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L.

Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2023/HS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Đồng Nai.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Sằng Vòng S, sinh năm 1970, tại Bình Thuận; nơi cư trú: ấp 4, xã XT, huyện CM, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hoá (học vấn): 0/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sằng Hồng P (đã chết) và bà Lầy Lục M (đã chết); vợ Phù A M, sinh năm: 1970 và có 06 con lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 07/9/2022 cho đến nay. (Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Tấn Đ (Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Đăng N), sinh năm 1969, tại Đồng Nai; nơi cư trú: ấp 1, xã BL, Thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng Q (đã chết) và bà Lê Thị L (đã chết); vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1973, có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2007.

Tiền án; Ngày 12/6/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã LK, tỉnh Đồng Nai xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Ngày 07/10/2022 mới đóng phạt nên chưa được xóa án tích (Bản án số 42/2015/HSST).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/01/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã LK xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng về tội “Đánh bạc” (Bản án số 14/2008/HSST).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 08/4/2022 cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

3. Nguyễn Thị Mai H, sinh năm 1975, tại Đồng Nai; nơi cư trú: ấp 1, xã BL, Thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Tăng Thị M (đã chết); chồng Trần Đăng T, sinh năm 1971, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 14/9/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố LK xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Ngày 13/01/2023 đi chấp hành án, đến ngày 03/5/2023 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2023 cho đến ngày 28/8/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Từ ngày 03/5/2023 bị bắt tạm giam cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

4. Phạm Thị Xuân L, sinh năm 1971, tại Quảng Ngãi; nơi cư trú: khu phố 2, phường PB, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm T (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); chồng Văn Tấn T (đã ly hôn), có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 1996.

Tiền án: Ngày 19/11/2020 bị Tòa án nhân dân huyện XL, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm về tội “Đánh bạc” (Bản án số 171/2020/HSST).

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2022 đến ngày 28/8/2022 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

5. Trần Thị Thanh L, sinh năm 1978, tại Đồng Nai; nơi cư trú: số 189 đường HTT, khu phố 5, phường XT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần H (đã chết) và bà Huỳnh Thị Ánh N, sinh năm: 1960; chồng Cao Bá T, sinh năm: 1976 (đã ly hôn), có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2003.

Tiền án: Ngày 24/6/2021 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (Bản án số 195/2015/HSPT).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: ngày 25/5/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm về tội “Tổ chức đánh bạc” (Bản án số 175/2005/HSST).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2022 đến ngày 27/7/2022 thì được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

6. Nguyễn Thị T, sinh năm 1977, tại Quảng Trị; nơi đăng ký thường trú: 131/17/5 NTMK, khu phố 6, phường XA, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: số 04, đường 29, khu phố ST, phường ST, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Q, sinh năm: 1943 và bà Lê Thị L, sinh năm: 1943; chồng Phạm Chiến T, sinh năm: 1978, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 12/06/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố LK, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (Bản án số 42/2015/HSST).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2022 đến ngày 11/5/2022 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

7. Nguyễn Thị N, sinh năm 1960, tại Long An; nơi cư trú: khu phố 2, phường PB, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hoá (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Tống Thị M (đã chết); chồng Trần Văn H, sinh năm: 1956, có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/01/2011 bị Tòa án nhân dân huyện XL, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửa thách là 20 tháng về tội “Đánh bạc” (Bản án số 10/2011/HSST, ngày 24/01/2011). Tại bản án hình sự phúc thẩm số 137/2011/HSPT, ngày 14/6/2011, của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, tuyên miễn trách nhiện hình sự cho bị cáo.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/4/2022 cho đến nay.

(Có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo Nỷ: Ông Nguyễn Văn T, Luật sư của Chi nhánh Văn phòng Luật sư Việt Tin Đồng Nai- thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho bị cáo Sáng: Ông Nguyễn Văn T, Luật sư của Văn phòng Luật sư Văn Trường- thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

Trong vụ án còn có các bị cáo Trần Ngọc L, Lầu Chi C, Phan Thị Thu T, Lý A D, Lộc Dếch S, Trịnh Lê L, Hồ Thanh T, Trần Ngọc H, Hồ A C, Phím Lỹ C, Cao Thanh T, Thái Thị S, Võ Trung N, Nguyễn Thị T, Trần Thị H, Phạm Thị N, Hồ Văn T, Lê Thị H, Huỳnh Thị Ú, Nguyễn Thị C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Sằng Ngọc Y, anh Huỳnh Trí H, bà Ngô Thị Thủy T không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên không xem xét và không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc L và Sằng Vòng S là bạn bè quen biết ngoài xã hội với nhau. Khoảng giữa tháng 03/2022, L và S thỏa thuận với nhau về việc S sẽ cho L sử dụng rẫy của S để tổ chức đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu được thua bằng tiền, ngày nào thắng bạc thì L sẽ cho S tiền.

Vào ngày 31/3/2022, L gọi điện thoại cho Lý A D, Phan Thị Thu T, Huỳnh Thị Ú, Lộc Dếch S, Lầu Chi C, Trần Ngọc H, Hồ Thanh T, Trịnh Lê L, Hồ A C đến rẫy của S để tổ chức đánh bạc; đồng thời liên hệ với Nguyễn Thị N, Lê Thị H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Thị T, Phạm Thị N, Nguyễn Thị Mai H, Võ Trung N, Huỳnh Trí T, Trần Thị H, Phím Lỹ C, Thái Thị S, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L, Cao Thanh T, Hồ Văn T, Nguyễn Thị C đến rẫy của S để đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày, khi L, D, T, Ú, S, C, H, T, L, C đang tổ chức cho N, H, T, Đ, T, N, H, N, T, H, C, S, L, L, T, T, C đánh bạc bằng hình thức “Xóc đĩa” được thua bằng tiền thì Công an tỉnh Đồng Nai bắt quả tang (bút lục số 202-213).

Hình thức đánh bạc “Lắc tài xỉu” được thua bằng tiền như sau: L sẽ chuẩn bị dụng cụ đánh bạc gồm: Tấm bạt tài xỉu, 01 đĩa sứ, 01 nắp nhựa màu đen và 03 hột xí ngầu loại 06 mặt. Tấm bạt tài xỉu sẽ được chia làm hai bên Tài và Xỉu cho các bạc đặt cược. L sẽ trải tấm bạt tài xỉu ra, đặt 03 viên xí ngầu vào đĩa sứ, úp nắp nhựa lại rồi lắc 01 lần và đặt xuống. Các con bạc sẽ đặt cược Tài hoặc Xỉu, sau đó L sẽ cân đối số tiền giữa hai mặt Tài và Xỉu, nếu thấy hợp lý thì L sẽ mở chén bạc ra và dựa vào các mặt lật lên của hột xí ngầu để tính điểm. Nếu tổng điểm của 03 hột xí ngầu là từ 10 điểm trở xuống thì được gọi là Xỉu, còn nếu tổng điểm từ 11 điểm trở lên thì được gọi là Tài. Trường hợp “Bão” tức là cả 3 hột xí ngầu có số điểm trên mỗi hột giống nhau thì người làm cái sẽ hoà bên Xỉu và ăn bên Tài hoặc ngược lại tuỳ vào tổng số điểm là Tài hay Xỉu. Khi lắc được “Bão” thì L sẽ cho những người phụ giúp L chung chi tiền thắng thua cho các con bạc mỗi người số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Đây là hình thức nhiều người cùng đánh bạc với nhau.

Quá trình điều tra đã xác định được vai trò và số tiền mà các bị cáo sử dụng để đánh bạc như sau:

1. Bị cáo Trần Ngọc L là người đứng ra tổ chức đánh bạc; thuê D, T, Ú, S, C, H, T, L, C giúp sức trong việc đánh bạc; đồng thời L mang theo số tiền 15.000.000 đồng để đánh bạc với vai trò làm cái. L đưa tiền cho D để chung chi thắng thua cho các con bạc. Khi lực lượng Công an bắt quả tang thì L bị thu giữ trên người số tiền 400.000 đồng (bút lục số 388-399).

2. Bị cáo Lý A D được L thuê làm nhiệm vụ chung chi tiền thắng thua cho các con bạc và được L trả tiền công số tiền 400.000 đồng. L đưa số tiền 15.000.000 đồng cho D để giúp L tính tiền thắng thua với các con bạc. Khi bị bắt quả tang, D bị thu giữ trên người số tiền 6.400.000 đồng (bút lục số 457- 474).

3. Bị cáo Phan Thị Thu T được L thuê làm nhiệm vụ chung chi tiền thắng thua cho các con bạc và đã được L trả tiền công số tiền 200.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 12.000.000 đồng, trong đó: 11.800.000 đồng là tiền T để chi tiêu cho công việc gia đình, không sử dụng để đánh bạc; 200.000 đồng là tiền công từ L (bút lục số 551-556).

4. Bị cáo Huỳnh Thị Ú được L thuê làm nhiệm vụ chung chi tiền thắng thua cho các con bạc tại sòng bạc lắc tài xỉu và đã được bị can L trả 400.000 đồng tiền công. Ngoài ra, Ú còn mang theo số tiền 500.000 đồng để tham gia đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Ú đã thua số tiền 400.000 đồng, bị thu giữ trên người số tiền 500.000 đồng (bút lục số 1087-1100).

5. Bị cáo Lộc Dếch S được L thuê vào trước để dọn bãi, chuẩn bị địa điểm cho L tổ chức đánh bạc. Sau đó, S chở các con bạc ra vào sòng bạc và làm nhiệm vụ cảnh giới. Khi bị bắt quả tang, S chưa nhận được tiền công từ L (bút lục số 479-482).

6. Bị cáo Lầu Chi C được L thuê vào trước để dọn bãi, chuẩn bị địa điểm cho L tổ chức đánh bạc và làm nhiệm vụ cảnh giới. Ngoài ra, C còn sử dụng số tiền 2.400.000 đồng để tham gia đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, C thắng được 1.100.000 đồng nên bị thu giữ trên người số tiền 3.500.000 đồng (bút lục số 507-511).

7. Bị cáo Hồ Thanh T được L thuê làm nhiệm vụ cảnh giới tại địa điểm đánh bạc và đã được L trả 300.000 đồng tiền công. Bị can T có đem theo số tiền 55.700.000 đồng. Trong đó: Số tiền 5.700.000 đồng là tiền T dùng để chi tiêu cho công việc của gia đình, không sử dụng vào mục đích đánh bạc, còn số tiền 50.000.000 đồng T đem đi cho L mượn, T không biết mục đích L mượn để làm gì. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 56.000.000 đồng (bút lục số 572-578).

8. Bị cáo Trần Ngọc H được L thuê vào trước để dọn bãi, chuẩn bị địa điểm cho L tổ chức đánh bạc. Sau đó, H trông giữ xe cho các con bạc. khi bị bắt quả tang, H chưa được L trả tiền công (bút lục số 623-631).

9. Bị cáo Trịnh Lê L được L thuê vào trước để dọn bãi, chuẩn bị địa điểm cho L tổ chức đánh bạc. Sau đó, L chở các con bạc ra vào sòng bạc và làm nhiệm vụ cảnh giới. Khi bị bắt quả tang, L chưa nhận được tiền công từ L (bút lục số 530-533).

10. Bị cáo Hồ A C và L sống chung với nhau như vợ chồng. C được L giao nhiệm vụ chuẩn bị thức ăn, nước uống rồi đưa vào sòng bạc để phục vụ cho các con bạc. Khi bị bắt quả tang, C bị thu giữ trên người số tiền 2.000.000 đồng. Đây là số tiền mà L đưa cho C để chuẩn bị thức ăn, nước uống cho các con bạc (bút lục số 601-605).

11. Bị cáo Sằng Vòng S sử dụng rẫy và nhà của mình cho L tổ chức đánh bạc. Từ ngày 22/3/2022 đến ngày 25/3/2022, L đến rẫy của S để tổ chức đánh bạc và cho S số tiền 2.200.000 đồng. Ngày 31/3/2022, khi bị cáo L tổ chức đánh bạc tại nhà của bị can S thì bị bắt quả tang nên S chưa nhận được tiền từ L (bút lục số 437-446).

12. Bị cáo Cao Thanh T sử dụng số tiền 16.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 19.000.000 đồng (bút lục số 1168-1174).

13. Bị cáo Phím Lỹ C sử dụng số tiền 10.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, C bị thu giữ số tiền 9.500.000 đồng (bút lục số 766-788).

14. Bị cáo Nguyễn Tấn Đ sử dụng số tiền 5.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Đ bị thu giữ trên người số tiền 9.000.000 đồng (bút lục số 705-714).

15. Bị cáo Thái Thị S sử dụng số tiền 4.200.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, S bị thu giữ trên người số tiền 4.200.000 đồng (bút lục số 742- 745).

16. Bị cáo Nguyễn Thị T sử dụng số tiền 4.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 3.000.000 đồng (bút lục số 1053- 1068) 17. Bị cáo Hồ Văn T sử dụng số tiền 3.800.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 5.800.000 đồng (bút lục số 1135- 1150).

18. Bị cáo Lê Thị H sử dụng số tiền 3.200.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H bị thu giữ trên người số tiền 6.500.000 đồng (bút lục số 1024- 1038).

19. Bị cáo Võ Trung N sử dụng số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, N bị thu giữ trên người số tiền 5.000.000 đồng (bút lục số 9828- 945).

20. Bị cáo Phạm Thị N sử dụng số tiền 2.500.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, N bỏ chạy và bị rơi số tiền 1.750.000 đồng, còn lại số tiền 250.000 đồng đã bị thu giữ (bút lục số 862-878).

21. Bị cáo Nguyễn Thị Mai H sử dụng số tiền 2.200.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H bị thu giữ trên người số tiền 2.000.000 đồng (bút lục số 888-891).

22. Bị cáo Trần Thị H sử dụng số tiền 1.780.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H bị thu giữ trên người số tiền 180.000 đồng (bút lục số 839-856).

23. Bị cáo Nguyễn Thị T sử dụng số tiền 1.700.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 700.000 đồng (bút lục số 651- 664).

24. Bị cáo Huỳnh Trí T sử dụng số tiền 1.600.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ trên người số tiền 300.000 đồng (bút lục số 948- 955).

25. Bị cáo Phạm Thị Xuân L sử dụng số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc. Khi lực lượng Công an bắt quả tang thì bị can L bị thu giữ trên người số tiền 1.000.000 đồng (bút lục số 669-700).

26. Bị cáo Nguyễn Thị C sử dụng số tiền 850.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, C đã thua hết số tiền trên (bút lục số 1116-1130).

27. Bị cáo Nguyễn Thị N sử dụng số tiền 700.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, N đã thua 500.000 đồng; lúc bỏ chạy bị rơi số tiền 200.000 đồng (bút lục số 997-1019).

28. Bị cáo Trần Thị Thanh L sử dụng số tiền 320.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, L bị thu giữ trên người số tiền 120.000 đồng (bút lục số 793-831).

Ngoài ra, L còn khai ngày 15/3/2022 đến ngày 30/3/2022, L cùng đồng phạm đã tổ chức đánh bạc cho những người tham gia đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa tại các khu rẫy bỏ hoang tại ấp Tân Bảo, xã BB, huyện CM và tại rẫy Sằng Vòng S thuộc ấp 4, xã XT, huyện CM. Tuy nhiên, L không nhớ có những ai đến tham gia đánh bạc.

Vật chứng thu giữ:

- Số tiền 166.050.000 đồng, (trong đó: 26.800.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc; 129.850.000 đồng thu giữ trên người các bị cáo; 9.400.000 đồng các bị cáo thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc) và 01 bộ dụng cụ lắc tài xỉu gồm: 01 đĩa sứ, 01 nắp nhựa, 03 hột xí ngầu, 01 bạt nhựa có in chữ “Tài”, “Xỉu” và các con số; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen của bị can Trần Ngọc L; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, mang biển số 60B6-xxxxx của Trịnh Lê L. Những vật chứng trên, hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện CM (Bút lục số 202-213).

- Số tiền 17.500.000 đồng, (trong đó: 5.700.0000 đồng của Hồ Thanh T và 11.800.000 đồng của Phan Thị Thu T) không liên quan đến việc đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM đã trả lại cho T, T (Bút lục số 366;

370).

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu xanh đen đỏ, biển số 60R7-xxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu đỏ, biển số 60B6- xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen trắng đỏ, biển số 60B6-xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, biển số 60B6- xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh bạc đen, biển số 60B6- xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu đen, biển số 60B6-xxxxx;

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu trắng đỏ, biển số 60B6-xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 60R6-xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vission, màu đen, biển số 60B5-xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 60S7-xxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vission, màu đỏ nâu, biển số 60B6-xxxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wazelet, màu xanh, biển số 51P3-xxxx. Những vật chứng trên không liên quan đến việc đánh bạc và tổ chức đánh bạc bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đỏ đen; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh;

01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu xám; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu bạc; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh. Những vật chứng trên không liên quan đến việc đánh bạc và tổ chức đánh bạc bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật (Bút lục số 359-387).

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Halim, màu nâu, mang biển số 60FL- 1635 do hiện nay chưa xác định được người sử dụng xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2023/HS-ST ngày 01/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Đồng Nai đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Sằng Vòng S phạm tội “Gá bạc” theo điểm b, khoản 1, Điều 322 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Mai H, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L phạm tội “Đánh bạc” theo điểm b, khoản 2, Điều 321 Bộ luật Hình sự.

- Áp dụng: điểm b, khoản 1, Điều 322; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Sằng Vòng S 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Áp dụng: điểm b, khoản 2, Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Xuân L 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 01/4/2022 đến ngày 28/8/2022.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh L 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2022 đến ngày 27/7/2022.

- Áp dụng: điểm b, khoản 2, Điều 321; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Áp dụng: điểm b, khoản 2, Điều 321; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2022 đến ngày 11/5/2022.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Mai H 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ 03/5/2023. Được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2022 cho đến ngày 28/8/2022.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về tội danh, hình phạt đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/6/2023, bị cáo Sằng Vòng S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

- Ngày 08/6/2023, các bị cáo Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

- Ngày 12/6/2023 các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L, Nguyễn Thị N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

+ Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị N phát biểu ý kiến:

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo N thành khẩn khai báo; phạm tội vì hoàn cảnh đặt biệc khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; phạm tội do lạc hậu; có mẹ chồng là Mẹ Việt Nam anh hùng, 02 anh chồng là liệt sĩ; chồng bị bệnh ung thư nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm cho bị cáo N các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, g, h, l, m, x khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tuyên xử miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo N.

+ Luật sư bào chữa cho bị cáo Sằng Vòng S phát biểu ý kiến:

Bị cáo S thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 54, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, không nặng như các bị cáo đã nêu nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ.

Các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L không có ý kiến tranh luận và trong lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Sằng Vòng S, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Sằng Vòng S vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo S.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo S vắng mặt nhưng qua lời khai tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Sằng Vòng S về tội “Gá bạc” theo điểm b, khoản 1, Điều 322 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Mai H, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L về tội “Đánh bạc” theo điểm b, khoản 2, Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về nội dung kháng cáo: Tại phiên tòa các bị cáo dẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy.

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L, Nguyễn Tấn Đ có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích lại phạm tội mới nên lần phạm tội này của các bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, vì vậy cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo là đúng quy định pháp luật.

+ Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Đối với bị cáo S phạm tội lần đầu, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình để áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; đối với bị cáo Đ tại phiên tòa phúc thẩm cung cấp giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ, phiếu chứng nhận con liệt sĩ đây là những tình tiết cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo để áp dụng điểm x, khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và tuyên xử bị cáo S 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù; các bị cáo L, L, Đ mỗi bị cáo 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù; bị cáo H 03 (ba) năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, không nặng như các bị cáo đã nêu nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo T cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ là Huy chương kháng chiến hạng nhất, Huy chương kháng chiến hạng nhì, bằng Tổ quốc ghi công và cho rằng có ông nội và chú ruột có công với cách mạng, tuy nhiên không cung cấp được tài liệu chứng minh có mối quan hệ với người có công với cách mạng nên không có căn cứ để xem xét.

Bị cáo N cung cấp giấy truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 02 Huân chương kháng chiến hạng ba thể hiện có mẹ chồng là Mẹ Việt Nam Anh Hùng, 02 người anh chồng là Liệt Sĩ, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì vậy áp dụng thêm cho bị cáo N, riêng các tình tiết giảm nhẹ khác luật sư bào chữa cho bị cáo N đề nghị tại phiên tòa phúc thẩm không phù hợp quy định pháp luật nên không áp dụng.

Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ và tuyên xử các bị cáo T và N, mỗi bị cáo với mức án 03 (ba) năm tù là mức thấp nhất của khung hình phạt, do đó Hội đồng xét xử xét thấy mức án mà cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ, hành vị phạm tội của các bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Các bị cáo Sằng Vòng S, Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[5] Xét ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo N phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận một phần.

[6] Xét ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo S không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Sằng Vòng S, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2023/HS-ST ngày 01/6/2023 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số 19/2023/TB-TA ngày 10/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Đồng Nai.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Sằng Vòng S 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Gá bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Xuân L 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giam trước từ ngày 01/4/2022 đến ngày 28/8/2022.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thanh L 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giam trước từ ngày 01/4/2022 đến ngày 27/7/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, x khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mai H 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày 03/5/2023. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giam trước từ ngày 01/4/2022 đến ngày 28/8/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giam trước từ ngày 01/4/2022 đến ngày 11/5/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Thị Mai H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N, Sằng Vòng S, Nguyễn Tấn Đ, Phạm Thị Xuân L, Trần Thị Thanh L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội đánh bạc số 441/2023/HS-PT

Số hiệu:441/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về