TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2023/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:
Trịnh Viết L (tên gọi khác: B), sinh năm 1991, tại Thành phố Hà Nội; nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ G, Khu phố K, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Viết C, sinh năm 1962 (đã chết) và bà Phạm Thị T, sinh năm 1964. Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Kim T (đã ly hôn), có 01 con chung: Trịnh Nguyễn Minh L1, sinh năm 2014 do bị cáo đang trực tiếp nuôi dưỡng. tiền án: Không; tiền sự: Ngày 15/11/2022 bị Công an xã T, huyện B xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi đánh bạc trái phép, tại quyết định số 44/QĐ-XPHC, đã nộp phạt xong ngày 17/11/2022; nhân thân: năm 2015 bị kết án 27 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích theo bản án số 27/2015/HSST, ngày 17/3/2015 của Tòa án nhân dân thị xã (Nay là thành phố) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, đã chấp hành xong ngày 19/7/2016. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/4/2023 cho đến nay; Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Thái Minh T (Tên gọi khác: T), sinh năm: 1991; nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ Q, ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
2. Anh Võ Lâm T1 (Tên gọi khác: M), sinh năm: 1990; nơi thường trú: Tổ W, ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nơi ở hiện nay: Tổ S, Khu phố X, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Anh Nguyễn Quang T2, sinh năm: 1999; nơi thường trú và chổ ở hiện nay: Tổ E, Ấp Y, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
4. Ông Lê Văn T3, sinh năm: 1985; nơi thường trú: Ấp Kênh Mới, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; nơi ở hiện nay: Ấp Bưng Lương, xã Tân M, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (Nhà trọ Minh Đức).
5. Công ty Trách nhiệm hữu hạn H, địa chỉ trụ sở chính: Đường T, ấp X, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
- Người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH H: Ông Nguyễn Nhựt T4, sinh năm 1985, địa chỉ cư trú: Ấp Z, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Anh Thái Minh T, anh Nguyễn Quang T2, anh Võ Lâm T1, ông Lê Văn T3 và ông Nguyễn Nhựt T4 đều có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Trịnh Đức L, sinh năm 1998 -Vắng mặt.
2. Trần Trọng P, sinh năm 2002 -Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trịnh Viết L, Nguyễn Quang T2, Thái Minh T, Lê Văn 3 là công nhân làm tài xế lái xe tải vận chuyển hàng hóa cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn H (Viết tắt là Công ty H) tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Võ Lâm T1 là người thu mua phế liệu và là bạn T3 và L.
Khoảng 10 giờ 00, ngày 14/02/2023, sau khi giao hàng hóa xong chờ nhận chuyến hàng mới thì Lê Văn T3 đi đến nhà nghỉ (nhà chờ) dành cho tài xế tại cổng Công ty H, tại đây T3 thấy Trịnh Viết L và Thái Minh T cũng đang chờ nhận hàng hóa nên T3 lấy ra 01 bộ bài tây loại 52 lá và rủ L và T cùng chơi đánh bạc dưới hình thức đánh bài sắc tê 06 lá/ tụ bài được thắng thua bằng tiền, mỗi tụ bài do một người chơi và đặt cược 20.000đ/tụ bài, sau khi 02 lá bài cuối cùng ra chiếu bạc, bài người nào có điểm cao nhất sẽ thắng toàn bộ số tiền của những người đặc cược. Khi T, T3 và L chơi đánh bạc được một lúc thì T2 và T1 đi vào phòng nghỉ nhìn thấy có đánh bạ nên cả T2 và T1 cùng vào tham gia đánh bạc cùng T3, T và L. Khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, Công an xã T, huyện B tuần tra phát hiện các đối tượng đánh bạc tại nhà nghỉ (nhà chờ) tại khu vực cổng Công ty H nên tiến hành kiểm tra hành chính và bắt quả tang L, T3, T, T2 và T1 đang đánh bạc thắng thua bằng tiền nên lập biên bản vi phạm quả tang.
* Tài liệu, đồ vật thu giữ gồm:
- Thu tại chiếu bạc: 01 (Một) bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng;
- Thu trên người Trịnh Viết L số tiền mặt 210.000đ cất trong túi áo trước đang mặc trên người và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trịnh Viết L;
- Thu trên người của Thái Minh T số tiền mặt 4.020.000đ gồm: Số tiền 200.000đ trong túi áo trước và số tiền 3.820.000đ cất trong bóp (Ví) da ở túi quần sau cùng 01 thẻ căn cước công dân mang tên Thái Minh T;
- Thu trên người Võ Lâm T1 số tiền mặt: 2.040.000đ gồm: Số tiền 240.000đ cất trong ống quần và số tiền 1.800.000đ cùng 01 thẻ căn cước công dân mang tên Võ Lâm T1 cất trong bóp (Ví) da để phía túi quần sau T1 đang mặc trên người;
- Thu trên người của Nguyễn Quang T2 số tiền mặt 1.235.000đ gồm: Số tiền 200.000đ tại vị trí ngồi của T2 và số tiền 1.035.000đ cất trong bóp (Ví) da ở túi quần sau cùng 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Quang T2;
- Thu trên người của Lê Văn T3 số tiền mặt 180.000đ tại vị trí ngồi của T3 và 01 ví da bên trong có 01 căn cước công dân mang tên Lê Văn T3 trong túi quần sau do T3 đang mặc trên người.
Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận:
- Trịnh Viết L mang theo số tiền 270.000đ và sử dụng hết số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, L bị thua 60.000đ, số tiền đánh bạc còn lại 210.000đ L cất trong túi áo trước và bị thu giữ;
- Thái Minh T mang theo trong người số tiền 4.020.000đ, T lấy ra số tiền 200.000đ để vào túi án sử dụng để đánh bạc. Số tiền 3.820.000đ T cất lại vào ví da để vào túi quần sau không sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T bị thua 20.000đ. Khi bị bắt quả tang, lực lượng chức năng thu giữ trên người T số tiền đánh bạc còn lại 180.000đ trong túi áo và số tiền không sử dụng đánh bạc trong ví da 3.820.000đ;
- Nguyễn Quang T2 mang theo trong người số tiền 1.295.000đ, T2 lấy ra số tiền 260.000đ để sử dụng đánh bạc. Số tiền 1.035.000đ, T2 dùng để đi đường nên cất lại vào ví da để vào túi quần sau không sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T2 bị thua 60.000đ. Khi bị bắt quả tang, lực lượng chức năng thu giữ tại vị trí ngồi của T2 số tiền đánh bạc còn lại 200.000đ và số tiền không sử dụng đánh bạc trong ví da 1.035.000đ;
- Võ Lâm T1 mang theo trong người số tiền 2.040.000đ, T1 lấy ra số tiền 240.000đ để vào ống quần đang mặc trên người sử dụng để đánh bạc. Số tiền 1.800.000đ dành để đóng hụi nên T1 cất lại vào ví da để vào túi quần sau không sử dụng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, thắng được 40.000đ. Khi bị bắt quả tang, lực lượng chức năng thu giữ trong ống quần của T1 số tiền đánh bạc 280.000đ và số tiền không sử dụng đánh bạc trong ví da 1.800.000đ;
- Lê Văn T3 mang theo trong người số tiền 80.000đ và sử dụng hết số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T3 thắng được 100.000đ. Khi bị bắt quả tang, lực lượng chức năng thu giữ số tiền 180.000đ tại vị trí ngồi của T3.
Do đó, có căn cứ xác định: Số tiền các đối tượng Trịnh Viết L, Thái Minh T, Nguyễn Quang T2, Võ Lâm T1, Lê Văn T3 sử dụng vào việc đánh bạc được xác định là 1.050.000đ (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).
Qua tra cứu thông tin về tiền án, tiền sự của các đối tượng, kết quả: Thái Minh T, Nguyễn Quang T2, Võ Lâm T1, Lê Văn T3 đều chưa có tiền án, tiền sự. Riêng đối với Trịnh Viết L có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép chưa được xóa về hành vi đánh bạc trái phép bị Công an xã T, huyện B xử phạt hành chính vào ngày 15/11/2022, chấp hành xong ngày 17/11/2022 tính đến ngày 14/02/2023 chưa đủ thời gian 06 tháng.
Ngày 17/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Trịnh Viết L để điều tra về hành vi đánh bạc theo Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại bản Cáo trạng số 52/CT-VKS-BTU, ngày 23/8/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị can Trịnh Viết L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
* Tại phiên tòa sơ thẩm:
Đại diện Viện Kiểm sát không bổ sung, thay đổi quan điểm truy tố, đồng thời giữ nguyên nội dung truy tố bị cáo Trịnh Viết L về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trịnh Viết L phạm tội đánh bạc đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 35, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bô luật Hình sự xử phạt bị cáo Long hình phạt chính là phạt tiền từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo đang nuôi con nhỏ, số tiền bị cáo tham gia đánh bạc không lớn để tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo bản thân trở thành người tốt. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng là 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng và tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền bị cáo cùng các đối tượng Nguyễn Quang T2, Thái Minh T, Lê Văn T3, Võ Lâm T1 đánh bạc là 1.050.000đ.
Bị cáo L nhận tội và không đối đáp, tranh luận gì khác về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác theo đồ nghị của đại diện Viện Kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Cơ quan điều tra, điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng, đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nên các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Về việc vắng mặt của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng họ đã có đơn xin xét xử vắng mặt, quá trình điều tra những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nói trên đã có lời khai rõ ràng, yêu cầu cụ thể về vụ án. Những người làm chứng vắng mặt không có lý do nhưng quá trình điều tra họ đã cung cấp lời khai về những tình tiết đã biết được về vụ án, cam đoan khai đúng sự thật. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo Trịnh Viết L không có yêu cầu triệu tập những người tham gia tố tụng vắng mặt đến phiên tòa để làm rõ các tình tiết có liên quan đến vụ án. Do đó, việc hoãn phiên tòa để triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng là không cần thiết. Căn cứ khoản 1 Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận tội, lời nhận tội của bị cáo L phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Thái Minh T, Võ Lâm T1, Nguyễn Quang T2, Lê Văn T3 và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận: Trịnh Viết L đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép bị Công an xã T xử phạt hành chính ngày 15/11/2022, tính đến ngày 14/02/2023 chưa được xóa tiền sự. Ngày 14/02/2023, bị cáo L đã thực hiện hành vi đánh bạc cùng với các đối tượng Thái Minh T, Võ Lâm T1, Nguyễn Quang T2 và Lê Văn T3 được thắng thua bằng tiền, với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 1.050.000đ đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Do đó, việc truy tố đối với bị cáo Trịnh Viết L về tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự tại Cáo trạng số 52/CT-VKS-BTU, ngày 23/8/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư tại địa phương. Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền, chưa được xóa tiền sự thì bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền thể hiện ý thức xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả của bị cáo. Xét nên áp dụng hình phạt thật nghiêm đối với bị cáo, đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo ý thức chấp hành pháp luật.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo L đã thành thật khai báo, tỏ ra ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, số tiền bị cáo tham gia đánh bạc không lớn 270.000đ/ 1.050.000đ; bị cáo đã ly hôn và đang trực tiếp nuôi con nhỏ Trịnh Nguyễn Minh L, sinh ngày 27/02/2014 theo quyết định ly hôn của Tòa án, việc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời hạn sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc, nuôi dạy cháu L nghỉ nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm thêm một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo là hình phạt tiền là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo đã gây ra, không đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định hình phạt khác.
[7] Xét thấy, bị cáo đã bị kết án về tội cố ý gây thương tích năm 2015, đã chấp hành xong và đã được xóa án tích từ tháng 6 năm 2018 nên thuộc trường hợp có nhân thân xấu. Đối với tiền sự về việc bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào ngày 15/11/2022 chưa được xóa nhưng tính tiết này đã là tình tiết định khung hình phạt theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự nên không xem xét là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo L. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ, có nơi cư trú rõ ràng, có công việc làm ổn định tại Công ty H đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 và Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP, ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên cho bị cáo L được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo tự cải tạo, học tập, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục theo quy định pháp luật.
[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bộ bài Tây loại 52 lá/bộ, đã qua sử dụng và tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.050.000đ do bị cáo L và các đối tượng Thái Minh T, Võ Lâm T1, Nguyễn Quang T2, Lê Văn T3 sử dụng để đánh bạc. Đối với các tài sản, đồ vật khác bị thu giữ trong quá trình điều tra và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã xử lý trả lại cho các chủ sở hữu là đúng quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên không đặt ra xem xét.
[9] Các vấn đề khác trong vụ án: Hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền với số tiền đánh bạc 1.050.000đ của Thái Minh T, Võ Lâm T1, Nguyễn Quang T2, Lê Văn T3 chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên ngày 15/8/2023, Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra các quyết định xử phạt hành chính đối với T, T1, T2 và T3 là đúng quy định tại các điều 57, 68, 70, 78 và Điều 85 Luật xử lý vi phạm hành chính nên không đặt ra xem xét.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trịnh Viết L phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 38, khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Áp dụng các điều 2, 4, 5, 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 01 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Áp dụng khoản 2 Điều 106, điểm d khoản 1 Điều 125, khoản 2 Điều 136, khoản 1 và 4 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án 1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Viết L (Tên gọi khác: B) phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trịnh Viết L 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/9/2023.
Giao bị cáo Trịnh Viết L cho gia đình và chính quyền địa phương Ủy ban nhân dân phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trường hợp bị cáo Trịnh Viết L thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong trường hợp thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 38/2023/HSST-LCCT, ngày 06/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Trịnh Viết L.
4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) bộ bài tây loại 52 lá/bộ, đã qua sử dụng;
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền đánh bạc là 1.050.000đ (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 23/8/2023 tại Kho bạc nhà nước huyện Bắc Tân Uyên).
5. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Trịnh Viết L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Bản án về tội đánh bạc số 42/2023/HS-ST
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về