Bản án về tội đánh bạc số 402/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 402/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 334/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo Nguyễn Văn C do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 124/2023/HSST ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C; Tên gọi khác: Không.

Giới tính: N; Sinh năm: 1994 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: tổ A, khu phố D, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Buôn bán.

Họ và tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1969.

Họ và tên mẹ: Hoàng Thị T1, sinh năm 1968.

Hiện cha, mẹ đang sinh sống tại khu phố D, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Vợ: Nguyễn Thị Hiếu H, sinh năm 1996. Hiện đang sinh sống tại khu phố D, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.

Con: Có 01 người tên Nguyễn Hoàng Kim Y, sinh năm 2015.

Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 tiền án:

+ Ngày 13/4/2022, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2002/HSST, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt phạt tiền 80.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, đến nay Nguyễn Văn C chưa thi hành.

Bị cáo Nguyễn Văn C bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện X từ ngày 24/10/2022 cho đến nay, chờ xét xử; có mặt.

(Trong vụ án này còn có các bị cáo khác và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người này không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ ngày 23/10/2022, tại căn chòi trong rẫy chôm chôm thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai, Đ2 Công an huyện X phối hợp với Công an xã B phát hiện, bắt quả tang gồm: Lưu Thành T2, Tsần V, Trịnh Thanh B, Nguyễn Lập M, Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ và Dương Thị Mẫu Đ1, đang có hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền. Công an khám xét thu giữ được số tiền 76.100.000 đồng (trong đó trên chiếu bạc số tiền 17.600.000 đồng và vị trí ngồi của các đối tượng tham gia đánh bạc số tiền 54.000.000 đồng), số tiền 112.800.000 đồng thu giữ trong người của các đối tượng tham gia đánh bạc, cụ thể: Lưu Thanh T4 số tiền 600.000 đồng, Tsần V số tiền 1.200.000 đồng, Trịnh Thanh B số tiền 4.100.000 đồng, Nguyễn Lập M số tiền 20.000.000 đồng, Nguyễn Hải H1 số tiền 3.000.000 đồng, Nguyễn Văn C số tiền 21.000.000 đồng, Nguyễn Thành V số tiền 10.500.000 đồng, Nguyễn Anh T3 số tiền 26.500.000.000 đồng, Nguyễn Hữu V1 số tiền 1.900.000 đồng, Trần Minh Đ số tiền 12.000.000 đồng, Dương Thị Mẫu Đ1 số tiền 11.000.000 đồng, Phạm Công M1 số tiền 1.000.000 đồng cùng các tang vật khác.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Để thu lời bất chính thông qua hoạt động đánh bạc, ngày 23/10/2022 Lưu Thanh T4 nảy sinh ý định tổ chức chiếu bạc bằng hình thức chơi tài xỉu nhằm lôi kéo người chơi đến tham gia đê ăn chia tiền bão với người làm cái. Để thực hiện ý định, T4 chọn địa điểm, bố trí chiếu bạc là căn chòi trong rẫy chôm chôm thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai và dùng 01 (một) tấm bạt tài xỉu kích thước 70cm x 100cm trải sẵn ra làm chiếu bạc tại căn chòi rẫy. T4 trực tiếp sử dụng điện thoại rủ Tsần V (K) đến chiếu bạc để làm cái lắc tài xỉu nhằm chia đôi tiền thắng trong các ván “bão” tài xỉu và điện thoại rủ Nguyễn Hữu V1, Dương Thị Mẫu Đ1, Nguyễn Anh T3 đến tham gia đánh bạc. Sau khi thỏa thuận với T4 thì Tsần Vĩnh L gặp Trịnh Thanh B và rủ B đến chiếu bạc quan sát việc đặt cược tiền đánh bạc của những đối tượng tham gia đánh bạc, B đồng ý. Đến khoảng 20 giờ ngày 23/10/2022, L cầm theo số tiền 30.000.000 đồng và 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp nhựa được dán băng keo màu đen, 01 chén bằng sứ và 03 hột xí ngầu) cùng B đến sòng bạc mà T4 tổ chức để đánh bạc. Ngoài ra, còn có Nguyễn Lập M, Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Trần Minh Đ có việc đến nhà T4 thấy có đánh bạc nên tự ý vào tham gia đánh bạc. Trong thời gian chơi, Tsần Vĩnh L làm cái lắc tài xỉu để Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ, Dương Thị Mẫu Đ1 tham gia đặt cược, quy định với mỗi con bạc đặt cược mỗi ván mỗi mặt “Tài” hoặc “Xỉu” chỉ được đặt tối đa là 3.000.000 đồng. Các con bạc đặt cược mỗi ván thấp nhất 200.000 đồng/người, nhiều nhất 2.000.000 đồng/người. Để có người phụ giúp trong việc thu, chung tiền thắng thua giữa nhà cái với người chơi, L nhờ Trịnh Thanh B và Nguyễn Lập M phụ giúp L quan sát những người chơi bạc tham gia đặt tiền cược, kiểm tra số tiền của những người chơi bạc tham gia đặt cược tránh bị gian lận tiền. Ngoài ra, trong quá trình làm cái những lúc thua nhiều thì L nhờ B thay L cầm chén lắc xí ngầu và B đã lắc cho L một số ván (không rõ bao nhiêu ván) nhưng không nhận lợi ích vật chất gì từ L. Quá trình đánh bạc đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì Lưu Thành T2, Tsần V, Trịnh Thanh B, Nguyễn Lập M, Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ, Dương Thị Mẫu Đ1, Phạm Công M1 bị bắt quả tang như đã nêu trên.

Hình thức đánh “T5 xỉu” thể hiện như sau: Người làm cái sử dụng một tấm bạt ni lông có kẻ ô tài, xỉu và các ô số từ 4 đến 17, 01 chén sành, 01 đĩa sành và 03 hột xí ngầu là một khối lập phương bằng nhựa màu trắng có 06 mặt, trên mỗi mặt có in các chấm tròn màu đỏ lần lượt từ 1 chấm đến 06 chấm (điểm) để làm công cụ đánh bạc. Các con bạc tham gia chơi sẽ đặt tiền lên chiếu bạc (bạt tài xỉu), có thể đặt vào ô tài, ô xỉu hoặc đặt số, sau khi các con bạc đã đặt tiền xong, nhà cái sẽ bỏ 03 hột xí ngầu vào bộ C1 và lắc, rồi đặt lên chiếu bạc và mở ra xem kết quả để xác định thắng thua. Cách tính thắng thua như sau: Cộng tổng số điểm ở mặt trên của cả 03 hột xí ngầu nếu từ 11 điểm trở lên là tài, từ 10 điểm trở xuống là xỉu, khi mở kết quả là “tài” thì những đối tượng đặt vào ô xỉu thua tiền cho nhà cái, còn các đối tượng mua tài thắng tiền nhà cái và ngược lại, đối với các con bạc đặt “ô số” thì chỉ thắng tiền khi kết quả mở ra số điểm trùng với “ô số” đã đặt, khi 03 hột xí ngầu có số điểm bằng nhau gọi là “bão” thì vẫn cộng điểm tính tài xỉu như trên nhưng nếu kết quả ra “tài” thì các đối tượng đặt “tài” sẽ hòa với cái và lấy tiền về, còn các con bạc đặt “xỉu” thua tiền cho nhà cái và ngược lại. Hình thức đặt tài xỉu tỷ lệ thắng thua với nhà cái là 1:1, hình thức đặt số tỷ lệ thắng sẽ được tính tùy theo số điểm, đặt ô số 4 và số 17 tỷ lệ 1 ăn 30, đặt ô số 5 và 16 tỷ lệ 1 ăn 18, đặt ô số 6 và 15 tỷ lệ 1 ăn 14, đặt ô số 7 và 14 tỷ lệ 1 ăn 12, đặt ô số 8 và 13 tỷ lệ 1 ăn 8, đặt các ô 9, 10, 11, 12 tỷ lệ 1 ăn 6.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X, Lưu Thành T2, Tsần V, Trịnh Thanh B, Nguyễn Lập M, Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ và Dương Thị Mẫu Đ1 khai nhận có tham gia đánh bạc, số tiền đánh bạc và kết quả thắng thua. Cụ thể như sau:

1. Lưu Thanh T4 khai nhận: Ngày 23/10/2022, T4 chuẩn bị địa điểm, bố trí chiếu bạc, rủ rê TSần V (K) đến tham gia làm cái, để ăn chia tiền bão; T4 sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh gắn sim số 09375251xx rủ Nguyễn Hữu V1, Dương Thị Mẫu Đ1, Nguyễn Anh T3 đến tham gia đánh bạc tại chiếu bạc do T4 chuẩn bị tại căn chòi trong rẫy chôm chôm, thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai để thu lợi bất chính. Quá trình đánh bạc, L làm cái xóc ra 03 ván bão, T4 thu được số tiền xâu 600.000 đồng. Khi Tsần Vĩnh L làm cái lắc tài xỉu thua hết tiền, có hỏi mượn T4 20.000.000 đồng, T4 lấy số tiền 20.000.000 đồng từ Nguyễn Thành V trả nợ cho T4 đưa cho L mượn. Ngoài ra, tại chiếu bạc Trần Minh Đ trả cho T4 số tiền 20.000.000 đồng, nhưng T4 nhờ Nguyễn Lập M giữ dùm do lúc đó T4 chưa đến chiếu bạc. Đến khi bị bắt quả tang, T4 bị thu giữ trong người số tiền 600.000 đồng tiền xâu, 01 (một) xe mô tô biển số 60B5-619.42, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh.

2. Tsần Vĩnh L khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 23/10/2022, L được Lưu Thanh T4 điện thoại đến số điện thoại của L sim số 09089102xx để rủ L làm cái đánh tài xỉu thắng thua bằng tiền; đồng thời, ăn chia tiền bão tại chiếu bạc do T4 tổ chức, L đồng ý. Sau đó, L gặp Trịnh Thanh B mượn số tiền 30.000.000 đồng để tham gia đánh bạc và rủ B đến chiếu bạc để phụ giúp L quan sát việc đặt tiền của những đối tượng tham gia đánh bạc, B đồng ý. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, L cầm theo số tiền 30.000.000 đồng và 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp nhựa được dán băng keo màu đen, 01 chén bằng sứ và 03 hột xí ngầu) cùng B đến sòng bạc do T4 tổ chức để đánh bạc. Trong thời gian chiếu bạc diễn ra, L đã tham gia làm cái lắc tài xỉu, kết quả L thua hết số tiền 30.000.000 đông, thì có mượn của Lưu Thanh T4 thêm số tiền 20.000.000 đồng để tiếp tục làm cái. Tại chiếu bạc, L còn nhờ Nguyễn Lập M đứng ra kiểm tra số tiền của những người chơi bạc tham gia đặt cược. Ngoài ra, trong quá trình chơi những lúc nhà cái thua nhiều thì L có nhờ B thay L lắc xí ngầu (cầm cái) để “xả xui”. B cầm cái cho L mấy ván (không nhớ rõ mấy ván) nhưng không nhận lợi ích vật chất gì từ L. L làm cái lắc được 03 ván tài xỉu ra bão nhưng chỉ có 02 ván bão thắng, 01 ván bão không thắng không thua và L đưa cho T4 600.000 đồng; đưa cho B 100.000 đồng, còn M chưa đưa tiền. Đến khi bị bắt quả tang, L thua số tiền 6.700.000 đồng, L để tại chiếu bạc ngay vị trí ngồi số tiền 43.300.000 đồng; bị thu giữ trong người số tiền 1.200.000 đồng và 01 (một) điện thoại Iphone X màu trắng. Qua điều tra, không chứng minh được L sử dụng số tiền 1.200.000 đồng để đánh bạc.

3. Trịnh Thanh B khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 ngày 23/10/2022, Tsần V mượn B số tiền 30.000.000 đồng và rủ B đến chiếu bạc do T4 tổ chức; L nhờ B quan sát những người chơi bạc tham gia đặt tiền cược, B đồng ý cho L mượn số tiền 30.000.000 đồng và đi cùng L đến chiếu bạc. Tại chiếu bạc, khi L làm cái thì B giúp L quan sát những người chơi bạc tham gia đặt tiền cược. Ngoài ra, do quen biết với L, nên trong thời gian diễn ra chiếu bạc, những lúc L thua nhiều, L có nhờ B thay L lắc xí ngầu (cầm cái) để “xả xui” giúp cho L. B đã tham gia lắc xí ngầu (cầm cái) thay cho L khoảng mấy ván (không nhớ mấy ván) nhưng không nhận lợi ích vật chất gì từ L. Quá trình đánh bạc, L xóc ra 03 ván bão, trong đó có 02 ván bão thắng, L đưa cho B tổng số tiền 100.000 đồng. B không tham gia đặt cược. Khi bị bắt quả tang, B bị thu giữ trên người số tiền 4.100.000 đồng, trong đó số tiền 100.000 đồng B lấy được từ tiền thắng 02 ván bão, còn số tiền 4.000.000 đồng không chứng minh được B dùng để đánh bạc.

4. Nguyễn Lập M khai nhận: Vào khoảng 21 giờ ngày 23/10/2022, M điều khiển xe mô tô biển số 60R7-26xx đến nhà Lưu Thanh T4 chơi. Đến nhà T4 thì M gặp Tsần V và B đang ở nhà T4, L và B nhờ M chở đến chiếu bạc do T4 tổ chức, M đồng ý. Tại chiếu bạc, khi L làm cái thì M giúp L kiểm tra số tiền của những người chơi bạc tham gia đặt cược. Ngoài ra, M có cất giữ giùm số tiền 20.000.000 đồng do khi bị bắt quả tang, M bị thu giữ trên người số tiền 20.000.000 đồng là tiền của Trần Minh Đ đưa đưa cho M cất giữ giùm để trả nợ cho Lưu Thanh T4 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 301 màu xanh.

5. Nguyễn Hải H1 khai nhận: H1 sử dụng số tiền 3.500.000 đồng để đánh bạc, khi đến chiếu bạc H1 tham gia được khoảng 10 ván, số tiền đặt cược mỗi ván 200.000 đồng đến 500.000 đồng, kết quả H1 không thắng không thua, đến khi bị bắt quả tang H1 bị tạm giữ trên người số tiền 3.000.000 đồng, còn 500.000 đồng đang đặt cược trên chiếu bạc mặt tài; 01 (một) xe mô tô biển số 60M3-63xx ; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh.

6. Nguyễn Văn C khai nhận: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 23/10/2022, C gọi điện thoại cho Nguyễn Thành V để lấy tiền nợ và C chỉ đường cho V đến căn chòi trong rẫy chôm chôm, thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai nơi V đang ở để lấy tiền nợ. Đến nơi, thấy có diễn ra đánh bạc và trong lúc đợi V trả nợ, C nhờ V đặt cược dùm C số tiền 500.000 đồng nhưng V chỉ đặt cược số tiền 200.000 đồng, kết quả C thắng. Sau đó, V lấy tiền và đưa cho C số tiền 200.000 đồng tiền thắng. Từ đó, C sử dụng số tiền 200.000 đồng để đánh bạc, C tham gia được khoảng 10 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 200.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng, kết quả C thắng được số tiền 3.700.000 đồng. Đến khi bị bắt quả tang, thu tại chiếu bạc ngay vị trí C ngồi số tiền 3.700.000 đồng và bị thu giữ trong người số tiền 21.000.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ biển số 60B2-750.22 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng. Qua điều tra không chứng minh được C sử dụng số tiền 21.000.000 đồng để đánh bạc.

7. Nguyễn Thành V khai nhận: V sử dụng số tiền 6.500.000 đồng để đánh bạc, khi đến chiếu bạc V tham gia được khoảng 30 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 200.000 đồng và cao nhất là 2.000.000 đồng, kết quả V thắng số tiền 24.000.000 đồng. Trong thời gian đánh bạc thì V trả nợ cho Lưu Thanh T4 số tiền 20.000.000 đồng và T4 cho L mượn số tiền 20.000.000 đồng để làm cái. Khi bị bắt quả tang, Công an thu giữ trong người Vĩnh số tiền 10.500.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Dream, biển số 60B2-176.75; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR, màu đen.

8. Nguyễn Anh T3 khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 23/10/2022, T3 được Lưu Thanh T4 điện thoại vào số điện thoại của T3 sim số 0908172054, rủ T3 đến tham gia đánh bạc do T4 tổ chức, T3 đồng ý. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi được T4 thông báo địa điểm chiếu bạc, T3 đến sòng bạc do T4 tổ chức, để tham gia đánh bạc. T3 sử dụng số tiền 26.000.000 đồng để đánh bạc, T3 tham gia đánh bạc được khoảng 10 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 300.000 đồng và cao nhất là 1.000.000 đồng, kết quả T3 thắng được số tiền 5.500.000 đồng. Đến khi bị bắt quả tang, T3 bỏ tại chiếu bạc số tiền 500.000 đồng, cầm trên tay số tiền 4.500.000 đồng, bị thu giữ trong người Tuấn số tiền 26.500.000 đồng; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng.

9. Nguyễn Hữu V1 khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 23/10/2022, Lưu Thanh T4 điện thoại vào số điện thoại của V1 sim số 03324135xx , rủ V1 đến chiếu bạc do T4 tổ chức, V1 đồng ý. Khi đến chiếu bạc, V1 sử dụng số tiền 3.900.000 đồng để đánh bạc, V1 tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 500.000 đồng và cao nhất là 2.000.000 đồng, kết quả thắng được số tiền 5.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, V1 bỏ tại chiếu bạc ngay vị trí V1 ngồi số tiền 7.000.000 đồng và bị thu giữ trên người số tiền 1.900.000 đồng; 01 (một) điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xám đen.

10. Trần Minh Đ khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 23/10/2022, Đ đến chiếu bạc do Lưu Thanh T4 tổ chức để tham gia đánh bạc, trước khi tham gia đánh bạc Đ lấy số tiền 20.000.000 đồng để trả nợ cho T4 nhưng do không gặp T4 nên Đ gọi điện thoại cho T4 và T4 nói đưa cho Nguyễn Lập M cất giữ giùm. Đ sử dụng số tiền 10.000.000 đồng để đánh bạc, Đ tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 1.000.000 đồng và cao nhất là 2.000.000 đồng, kết quả thắng được số tiền 2.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, Đ bị thu giữ trên người số tiền 12.000.000 đồng và 01 (một) xe mô tô biển số 60HB-2479.

11. Dương Thị Mẫu Đ1 khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 23/10/2022, Đơn được Lưu Thanh T4 điện thoại vào số điện thoại của Đơn sim số 0947882xx rủ đến tham gia đánh bạc do T4 tổ chức, Đ1 đồng ý. Khi đến chiếu bạc, Đ1 sử dụng số tiền 11.000.000 đồng để đánh bạc, Đơn tham gia đánh bạc được khoảng 10 ván, với số tiền đặt cược thấp nhất là 500.000 đồng và cao nhất là 1.000.000 đồng. Đến khi bị bắt quả tang, Đơn không thắng không thua, Công an thu giữ trong người Đơn số tiền 11.000.000 đồng và 01 (một) điện thoại Masstel màu đen.

12. Phạm Công M1 khai nhận: Vào khoảng 21 giờ ngày 23/10/2022, M1 đến nhà Đ ở ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai để rủ Đ đi nhậu, Đ nhờ M1 chở Đ đến căn chòi trong rẫy chôm chôm, thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đông Nai, M1 đồng ý. Đến nơi, thấy đang đánh bạc bằng hình thức chơi tài xỉu thắng thua bằng tiền, Đ vào tham gia chơi bạc, còn M1 chỉ đứng xem, M1 không tham gia đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, M1 bị thu giữ trên người số tiền 1.000.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A12.

Như vậy, tổng số tiền Lưu Thành T2, Tsần V, Trịnh Thanh B, Nguyễn Lập M, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Văn C, Trần Minh Đ, Dương Thị Mẫu Đ1, Nguyễn Thành V, Nguyễn Hải H1 và Nguyễn Hữu V1 sử dụng vào việc đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi tài xỉu thắng thua bằng tiền ngày 23/10/2022 là 141.700.000 đồng (Một trăm bốn mươi mốt triệu bảy trăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKSXL-HS ngày 12 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện X truy tố bị cáo Lưu Thanh T4, về tội: “Tổ chức đánh bạc”, theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự và các bị cáo Tsần V, Trịnh Thanh B, Nguyễn Lập M, Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ và Dương Thị Mẫu Đ1, về tội: “Đánh bạc”, quy định tại điểm b khoản 2, Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án số 124/2023/HSST ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai:

* Tuyên bố bị cáo Lưu Thanh T4 phạm tội "Tổ chức đánh bạc".

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Lưu Thanh T4 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2022.

Phạt tiền bổ sung: Không.

* Tuyên bố các bị cáo TSần V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Văn C, Nguyễn Lập M, Trịnh Thanh B, Nguyễn Thành V, Dương Thị Mẫu Đ1, Trần Minh Đ, Nguyễn Hải H1 và Nguyễn Hữu V1 phạm tội "Đánh bạc".

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn C 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2022.

Phạt tiền bổ sung: Không.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo TSần Vĩnh Lợi 03 (Ba) năm cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo TSần Vĩnh Lợi 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu).

Giao bị cáo TSần Vĩnh Lợi cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 14/3/2023 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Anh T3 03 (Ba) năm cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo Nguyễn Anh T3 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu).

Giao bị cáo Nguyễn Anh T3 cho Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 14/3/2023 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Lập M 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo Nguyễn Lập M 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu).

Giao bị cáo Nguyễn Lập M cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 23/10/2022 đến ngày 01/11/2022 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành V 01(Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo Nguyễn Thành V 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu).

Giao bị cáo Nguyễn Thành V cho Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 10/01/2023 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Dương Thị Mẫu Đ1 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo Dương Thị Mẫu Đ1 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu).

Giao bị cáo Dương Thị Mẫu Đ1 cho Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 10/01/2023 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Trần Minh Đ 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bị cáo Trần Minh Đ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu).

Giao bị cáo Trần Minh Đ cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 30/12/2022 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hải H1 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ Phạt bị cáo Nguyễn Hải H1 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu).

Giao bị cáo Nguyễn Hải H1 cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 29/11/2022 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

- Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu V1 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2022 đến ngày 30/12/2022.

Phạt bị cáo Nguyễn Hữu V1 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu).

Giao bị cáo Nguyễn Hữu V1 cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 24/10/2022 đến ngày 29/11/2022 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015( sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: bị cáo Trịnh Thanh B 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2022 đến ngày 10/11/2022.

Phạt bị cáo Trịnh Thanh B 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu).

Giao bị cáo Trịnh Thanh B cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ tại Luật Thi hành án hình sự.

Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai nơi cư trú của bị cáo nhận được Quyết định thi hành án và Bản sao bản án; được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 23/10/2022 đến ngày 10/11/2022 (một ngày) tương đương 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ.

Ngoài ra bản án còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

* Ngày 04/7/2023, bị cáo Nguyễn Văn C có đơn xin kháng cáo xin giảm án và giảm khung hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận tội và khẳng định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng. Tuy nhiên bị cáo thấy mức án cấp sơ thẩm áp dụng là quá cao, mong được xem xét giảm án cho bị cáo và giảm khung hình phạt.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đng Nai tại phiên tòa: Khẳng định bản án sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng vì số tiền thu được trên chiếu bạc đã đủ cơ sở truy tố tại khoản 2. Mức án cấp sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Văn C 3 năm tù là mức án khởi điểm của khung hình phạt và bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm. Vì vậy, không có cơ sở để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào lúc 23 giờ ngày 23/10/2022 Lưu Thanh T4 tổ chức cho các đối tượng đến tham gia chơi tài xỉu, được thua bằng tiền để ăn chia tiền bão với người làm cái. T4 chọn địa điểm, bố trí chiếu bạc là căn chòi trong rẫy chôm chôm thuộc ấp C, xã B, huyện X, tỉnh Đồng Nai và dùng 01 (một) tấm bạt tài xỉu kích thước 70cm x 100cm trải sẵn ra làm chiếu bạc phục vụ cho việc đánh bạc. T4 rủ TSần Vĩnh L tham gia làm cái và rủ Nguyễn Hữu V1, Dương Thị Mẫu Đ1, Nguyễn Anh T3 đến tham gia đánh bạc. TSần Vĩnh L làm cái lắc tài xỉu để Nguyễn Hải H1, Nguyễn Văn C, Nguyễn Thành V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Hữu V1, Trần Minh Đ và Dương Thị Mẫu Đ1 tham gia đặt tiền đánh bạc, mỗi con bạc đặt cược mỗi ván thấp nhất 200.000 đồng/người, nhiều nhất 2.000.000 đồng/người. Để có người phụ giúp trong việc thu, chung tiền thắng thua giữa nhà cái với người chơi, L nhờ Trịnh Thanh B và Nguyễn Lập M phụ giúp L quan sát những người chơi bạc tham gia đặt tiền cược, kiểm tra số tiền của những người chơi bạc tham gia đặt cược tránh bị gian lận tiền. L đã đưa cho T4 600.000 đồng tiền xâu; đưa cho B 100.000 đồng, còn M thì L chưa đưa tiền. Ngoài ra, trong quá trình làm cái những lúc thua nhiều thì L nhờ B thay L cầm chén lắc xí ngầu và B đã lắc cho L một số ván nhưng không nhận lợi ích vật chất gì từ L. Quá trình đánh bạc đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì bị công an phát hiện bắt quả tang với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 141.700.000 đồng (Một trăm bốn mươi mốt triệu bảy trăm nghìn).

Từ những chứng cứ trên đã đủ cơ sở khẳng định cấp sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Văn C theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự về tội “Đánh bạc” là đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C:

Ngày 13/4/2022 bị cáo Nguyễn Văn C bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo 80.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/2022/HSST, bị cáo C chưa thi hành bản án này. Đến ngày 23/10/2022, bị cáo tiếp tục phạm tội “Đánh bạc” là tái phạm. Với tổng số tiền dùng để đánh bạc của các bị cáo trong vụ án là 141.700.000 đồng, cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự (khung hình phạt có mức án từ 03 đến 07 năm tù) đối với bị cáo c là đúng quy định pháp luật; bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì vậy cấp sơ thẩm xử bị cáo C mức án 03 năm tù (là mức khởi điểm của khung hình phạt) là không nặng. Bị cáo kháng cáo xin chuyển khung hình phạt và giảm án cho bị cáo là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về nội dung khác:

Hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm đối với các bị cáo Lưu Thanh T4, TSần V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Lập M, Trịnh Thanh B, Nguyễn Thành V, Dương Thị Mẫu Đ1, Trần Minh Đ, Nguyễn Hải H1 và Nguyễn Hữu V1 là chưa phù hợp, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Bởi vì:

- Lưu Thanh T4 có nhân thân xấu, số tiền dùng để đánh bạc là rất lớn.

- Trần Vĩnh L1 có 02 nhân thân xấu cùng loại tội phạm “Đánh bạc”.

- Nguyễn Anh T3 có nhân thân xấu.

- Nguyễn Lập M có 02 nhân thân xấu.

- Các bị cáo Trịnh Thanh B, Nguyễn Thành V, Dương Thị Mẫu Đ1, Trần Minh Đ, Nguyễn Hải H1 và Nguyễn Hữu VI mặc dù không có tiền án, tiền sự nhưng phạm tội tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù, thuộc trường hợp nghiêm trọng và không có hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng mức án cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo này là không phù hợp với quy định pháp luật.

- Quyết định của cấp sơ thẩm đối với các bị cáo này không bị kháng nghị, nên đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, trong bản án này, cần thiết phải kiến nghị đến cấp giám đốc thẩm.

[6] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo Nguyễn Văn C, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 124/2023/HS-ST ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 ; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn C 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2022.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Kiến nghị Chán án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo trình tự Giám đốc thẩm Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2023/HSST ngày 30/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, phần quyết định hình phạt đối với các khác: Lưu Thanh T4, TSần V, Nguyễn Anh T3, Nguyễn Lập M, Trịnh Thanh B, Nguyễn Thành V, Dương Thị Mẫu Đ1, Trần Minh Đ, Nguyễn Hải H1 và Nguyễn Hữu V1.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 402/2023/HS-PT

Số hiệu:402/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về