Bản án về tội đánh bạc số 369/2023/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 369/2023/HSPT NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Vũ Đức X. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2022/HSST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.

* Bị cáo có kháng cáo: Vũ Đức X; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1977; HKTT: 27/7 Quang T, phường Bà T1, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Chỗ ở: 29/7 Quang T, phường Bà T1, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao Đ1 tự do; Con ông: Vũ Đức T2, sinh năm 1941; con bà: Đặng Thị H, sinh năm 1950 cùng trú tại 27/7 Quang T, phường Bà T1, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Gia đình có 04 anh chị em. Bị cáo là con út; Vợ: Phạm Thị Tuyết L, sinh năm 1980; có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/5/2022 đến ngày 21/5/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có: Bị cáo Đoàn Xuân B không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vũ Đức X có mối quan hệ họ hàng với Đoàn Xuân B. Đầu tháng 9/2021, X liên hệ với B để nhờ B lấy cho tài khoản cá độ bóng đá để tham gia cá độ thì B đồng ý. Khoảng 2 - 3 ngày sau, B chuyển cho X tài khoản cá độ bóng đá KI460B0000F trên trang bong88.com với hạn mức là 3000 đô, 1 đô B và X thống nhất 10.000 đồng, thỏa thuận thanh toán thắng thua vào thứ 2 hàng tuần bằng tiền mặt, hoặc thông qua tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0831000051453 của X và tài khoản ngân hàng MBbank số 070835755555 của B. Sau khi lấy được tài khoản cá độ bóng đá, X đăng nhập tài khoản KI460B0000F để tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá được thua bằng tiền, quá trình cá độ X không được hưởng tiền Com (tiền hoa hồng của nhà cái). Căn cứ lịch sử tham gia đánh bạc của X trên tài khoản KI460B0000F, từ ngày 21/10/2021 đến ngày 01/5/2022 xác định có tổng cộng 2.979 kèo đặt cược, trong tổng số 1.366 trận bóng mà X tham gia cá độ, trong đó xác định được: Có 265 lần (trận bóng) X đánh bạc với số tiền từ 5.000.000 đồng trở lên; 01 lần tham gia đánh bạc với số tiền trên 50.000.000 đồng. Với tổng số tiền cược là 204.627 đô x 10.000 đồng = 2.046.270.000 đồng; Tổng số tiền các kèo thắng là 93.261 đô x 10.000 đồng = 932.607.500 đồng; tổng số tiền các kèo thua là 71.418,4 đô x 10.000 đồng = 714.184.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền X thắng được từ các trận cá độ có lượng tiền trên 5.000.000 đồng là 932.607.500 đồng – 714.184.000 đồng = 218.423.500 đồng. Quá trình đánh bạc bằng tài khoản KI460B0000F, Vũ Đức X đánh 01 trận với tổng số tiền trên 50.000.000 đồng là trận FC U Craiova 1948 - UTA Arad lúc 12:00 PM ngày 01/5/2022, X cược 03 kèo tổng số tiền cược là 5.200 đô x 10.000 đồng = 52.000.000 đồng. Tổng số tiền thắng là 2.293,6 đô x 10.000 đồng = 22.936.000 đồng. Tổng số tiền thua là 2.439,3 đô x 10.000 đồng = 24.393.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc lần này là 7.493,6 đô x 10.000 đồng = 74.936.000 đồng; Có 1.101 trận bóng X đánh bạc có tổng số tiền các trận dưới 5.000.000 đồng với tổng số tiền đặt cược là 102.000 đô x 10.000 đồng = 1.020.000.000 đồng, Tổng số tiền các kèo thắng là 30.200,24 đô x 10.000 đồng = 302.002.400 đồng; tổng số tiền các kèo thua là 52.689,9 đô x 10.000 đồng = 526.899.000 đồng. Như vậy, tổng tiền X thua trong 1.101 lần đánh bạc với lượng tiền đánh bạc mỗi lần dưới 5.000.000 đồng là 526.899.000 đồng - 302.002.400 đồng = 224.896.600 đồng.

Căn cứ tài liệu điều tra, ngày 19/5/2022, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định đã triệu tập Đoàn Xuân B, B khai nhận: Vào khoảng tháng 9/2021, Vũ Đức X là chú họ của B có hỏi B là hiện nay Lê Nhật D sinh năm: 1991; HKTT: 19 Hai Bà T3, P. Trần Hưng Đ, TP. Nam Định; Thường trú tại: Số 17 Hai Bà T3, P. Trần Hưng Đ, TP. Nam Định còn làm bóng không, đồng thời nhờ B lấy hộ từ D một tài khoản cá độ bóng đá để tham gia đánh bạc. B đồng ý rồi gửi số điện thoại của D (B chỉ nhớ 3 số cuối là 855) đưa cho X, để X tự liên hệ với D lấy tài khoản cá độ. Sau đó vài ngày, X thông báo cho B biết là đã lấy được tài khoản bóng từ D để tham gia đánh bạc, đã thống nhất với B và D là nhờ B đứng ra thanh toán thắng thua trên trang cá độ này với D, B đồng ý. B và D thống nhất thanh toán qua C nhà ở Hà Nội (B không biết cụ thể tên tuổi, địa chỉ của C). X thắng hoặc thua thì C sẽ liên hệ với B qua số điện thoại 0857395555 hoặc Telegram để hẹn đến gần nhà B tại ngõ 568 Trần Hưng Đ, TP. Nam Định để thanh toán tiền. Khi X tham gia cá độ bóng đá thua thì sẽ trực tiếp gặp B để thanh toán, hoặc thông qua tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0831000051453 của X, chuyển tiền cho B để thanh toán. Sau khi nhận được tiền thanh toán của X qua tài khoản, B không trực tiếp rút tiền mặt để thanh toán cho D, mà để lại trong tài khoản để sử dụng chi tiêu công việc cá nhân, sử dụng tiền mặt của cá nhân có sẵn chuyển cho C để thanh toán cho D. Khi B muốn rút tiền trong tài khoản để thanh toán, thì sẽ sử dụng tài khoản MB Bank của B chuyển tiền cho Hoàng Quang V (sinh năm: 1988; trú tại: 140 đường Phù N, P. Lộc H1, TP. Nam Định); Đặng Mai L1 (sinh năm: 1994; trú tại: 7/130 đường K, P. Cửa B1, TP. Nam Định) và Phạm Ngọc Đ1 (sinh năm: 1988; trú tại: 116 Trần Thái T4, P. Lộc V1, TP. Nam Định) nhờ rút để lấy tiền mặt chuyển cho C thanh toán cho D. Quá trình chuyển tiền cho Đ1, V và L1 để nhờ rút tiền mặt, B không nói mục đích chuyển tiền hay nguồn gốc số tiền.

Căn cứ tài liệu sao kê trên tài khoản ngân hàng Mbbank của B xác định, có 04 giao dịch Phạm Ngọc Đ1 chuyển tiền cho B tổng số tiền là 393.600.000 đồng; 02 giao dịch Hoàng Quang V chuyển cho B tổng số tiền 33.200.000 đồng;

07 giao dịch chuyển nhận tổng số tiền 326.525.000 đồng với Đặng Mai L1. Tiến hành đấu tranh, B khai nhận: đối với số tiền 393.600.000 đồng Đ1 chuyển cho B, thì có 368.300.000 đồng là tiền B vay của Đ1 để sử dụng vào mục đích tiêu sài cá nhân, còn lại 25.300.000 đồng do thời gian lâu, nên B không nhớ rõ mục đích của giao dịch này. Số tiền 33.200.000 đồng V chuyển cho B là tiền B vay V để chi tiêu cá nhân. Số tiền 326.525.000 đồng B và L1 giao dịch với nhau, thì có 95.000.000 đồng B chuyển cho L1 để nhờ L1 rút tiền mặt cho B, trong số tiền này có cả tiền X thanh toán thua cá độ bóng đá trước đó và có cả tiền của cá nhân B, khi chuyển tiền cho L1 nhờ rút tiền mặt thì B không nói cho L1 biết nguồn gốc và mục đích của số tiền. Còn lại là các giao dịch vay mượn của L1 và B.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành triệu tập các đối tượng Phạm Ngọc Đ1, Hoàng Quang V và Đặng Mai L1 để đấu tranh về số tiền B chuyển để nhờ rút lấy tiền mặt. Tại cơ quan điều tra Đ1, L1 và V đều khai nhận có quen biết và chơi với B, đồng thời có giao dịch vay mượn, chuyển nhận tiền với B nhưng do thời gian đã lâu, nên chỉ xác định được việc chuyển nhận tiền này không liên quan đến hoạt đọng cờ bạc, nhưng không nhớ mục đích chuyển nhận tiền với B cụ thể như nào.

Cơ quan CSĐT đã phối hợp với ngân hàng Vietcombank tiến hành in sao kê giao dịch trên tài khoản Vietcombank số 0831000051453 của X xác định, có 06 giao dịch chuyển nhận tiền với tài khoản MB bank số 070835755555 của Đoàn X B, 04 giao dịch chuyển nhận tiền với tài khoản ngân hàng Vietcombank số 1017575003 của Hà Thu H2, sinh năm: 1988; trú tại: 8/113 Trần Quang K1, P. Năng T5, TP. Nam Định – là vợ của B. Tiến hành đấu tranh với X, X khai nhận có 06 giao dịch chuyển nhận tiền với B là thanh toán tiền thắng, thua cá độ bóng đá với tổng tiền X chuyển cho B là 284.546.577đ, B chuyển cho X là 4.000.000đ. Đối với 04 giao dịch với tài khoản ngân hàng Vietcombank số 1017575003 của Hà Thu H2, X khai nhận có 02 giao dịch chuyển nhận tiền với H2 là X vay tiền của H2, còn lại 02 giao dịch là B sử dụng tài khoản ngân hàng của H2 để thanh toán tiền cá độ bóng đá cho X.

Tiến hành in sao kê giao dịch trên tài khoản ngân hàng Mbbank số 070835755555 của B xác định, có 06 giao dịch chuyển nhận tiền với tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0831000051453 của X. Đấu tranh B khai nhận, 06 giao dịch chuyển nhận tiền với X trên tài khoản ngân hàng MBBank nêu trên, đều là các giao dịch thanh toán tiền thắng thua cá độ bóng đá. Ngoài ra, ngày 10/11/2021, B có sử dụng tài khoản ngân hàng Vietcombank số 1017575003 của Hà Thu H2 (là vợ B) để nhận số tiền 21.650.000 đồng X thanh toán tiền thua cá độ bóng đá; ngày 15/11/2021, B tiếp tục sử dụng tài khoản của H2, chuyển cho X 11.730.000 đồng vào tài khoản Vietcombank số 0831000051453 của X, để thanh toán tiền thắng cá độ cho X (phù hợp với lời khai của X). Quá trình mượn tài khoản của H2 để giao dịch, B không nói cho H2 biết mục đích và nguồn gốc số tiền B đã giao dịch.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành triệu tập đấu tranh với Hà Thu H2, về các giao dịch với X trên tài khoản ngân hàng Vietcombank của H2, H2 khai nhận có thực hiện 02 giao dịch chuyển cho X số tiền 15.000.000 đồng là tiền X vay của H2, do cùng làm ăn buôn bán quần áo với nhau tại chợ Rồng; còn lại 02 giao dịch ngày 10/11/2022 và 15/11/2022, B sử dụng tài khoản của H2 để giao dịch với X, nội dung và mục đích của các giao dịch này H2 không rõ, do B không thông báo với H2.

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định đã tiến hành xác minh, triệu tập Lê Nhật D nhưng D đã bỏ trốn khỏi địa phương, D hiện đang là bị can bị truy nã trong vụ án khác theo quyết định truy nã số 19 ngày 16/8/2021 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành đấu tranh với X về mối quan hệ với Lê Nhật D, nhưng X khẳng định bản thân không quen biết hay giao dịch gì với Lê Nhật D.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2022/HSST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, đã quyết định: Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Vũ Đức X phạm tội: “Đánh bạc”; Xử phạt bị cáo Vũ Đức X 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2022; Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Phạt tiền bị cáo Vũ Đức X 10 (mười) triệu đồng sung quỹ Nhà nước. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Đoàn Xuân B, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, nghĩa vụ thi hành án, án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 27/11/2022, bị cáo Vũ Đức X kháng cáo giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo X giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thừa nhận bản án sơ thẩm xử đúng người, đúng tội; bị cáo X ăn năn hối cải, trình bày hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính, bố mẹ già yếu, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Chị Phạm Thị Tuyết L (vợ X) xác định gia đình đã nộp thay 10.200.000 đồng tại Cơ quan thi hành án dân sự, trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, con nhỏ, X là lao động chính, đề nghị khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo X.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, vai trò, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo Vũ Đức X bị xét xử về tội Đánh bạc theo điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, xét thấy việc xác định vai trò của X cao hơn B là bất lợi cho X, trong vụ án X và B có vai trò ngang nhau; ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng, bị cáo tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra khai ra hành vi phạm tội của Đoàn Xuân B và đối tượng liên quan, gia đình nộp 10.200.000 đồng tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm, bố mẹ già yếu, con nhỏ và là lao động chính trong gia đình, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo X từ 11 tháng đến 12 tháng tù, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đức X thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp Biên bản bắt người trong trường hợp khẩn cấp; phù hợp lời khai của bị cáo Đoàn Xuân B; phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản tạm giữ, niêm phong, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Khoảng tháng 9/2021, Vũ Đức X nhờ Đoàn Xuân B lấy giúp cho tài khoản cá độ bóng đá KI460B0000F, với hạn mức tài khoản 3.000 đô để tham gia cá độ bóng đá qua mạng trên trang Bong88.com với giá 01 đô là 10.000 VNĐ, không được hưởng tiền Com và thắng thua thanh toán vào thứ 2 hàng tuần bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản ngân hàng. Từ ngày 21/10/2021 đến ngày 01/5/2022, Vũ Đức X tham gia cá độ bóng đá được thua bằng tiền trên tài khoản này 265 trận với tổng số tiền đánh bạc là 2.978.877.500đ (tiền đánh bạc mỗi trận từ 5.000.000 đồng trở lên), trong đó 01 trận tiền đánh bạc trên 50 triệu đồng (trận FC U Craiova 1948 - UTA Arad ngày 01/5/2022, X cược 03 kèo tổng số tiền đánh bạc là 74.936.000 đồng). Trong đó, X đã đặt cược tổng số tiền là 2.046.270.000đ; tổng số tiền thắng được là 932.607.500 đồng; tổng số tiền đặt cược thua là 714.184.000 đồng và chiếm hưởng được số tiền 932.607.500 đồng - 714.184.000 đồng = 218.423.500 đồng. Đoàn Xuân B lấy tài khoản cá độ bóng đá giúp X, làm trung gian thành toán tiền đánh bạc giúp X và không được hưởng lợi gì. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Vũ Đức X về tội: “Đánh bạc” theo điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với hành vi của Đoàn Xuân B cũng đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội: “Đánh bạc” theo điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử, bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng nghị, nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo X: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng. Cờ bạc là một tệ nạn xã hội, là nguồn cơn gây ra nhiều loại tệ nạn khác, gây ra nhiều bức xúc trong đời sống nhân dân. Vụ án các bị cáo đồng phạm mang tính chất giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo Đoàn Xuân B nhân thân xấu và là người cung cấp tài khoản, thanh toán tiền đánh bạc thắng thua cho Vũ Đức X, bị cáo X nhận các tài khoản cá độ bóng đá và cá độ trên mạng internet từ B, thanh toán tiền thắng thua với B, nên X và B có vai trò ngang nhau, cấp sơ thẩm xác định B vai trò sau X và xử mức thấp hơn là bất lợi cho X. Bị cáo X nhiều lần đánh bạc, phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử đồng tình nhận định của cấp sơ thẩm, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã xét bị cáo thành khẩn, gia đình có công cách mạng và áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt. Căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt mức án 03 năm tù đối với bị cáo Vũ Đức X là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, ngoài những tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng, xét thấy trong giai đoạn điều tra bị cáo X khai ra hành vi phạm tội của Đoàn Xuân B và đối tượng liên quan, thể hiện tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án; gia đình nộp 10.200.000 đồng tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm; đơn được chính quyền địa phương xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu, nuôi 02 con nhỏ, là lao động chính trong gia đình; tại phiên tòa bị cáo thực sự thành khẩn và ăn năn hối cải, xét đây là những tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng cho bị cáo được hưởng theo điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo, do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên có căn cứ áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[4]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở và được chấp nhận.

[5]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận, không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Đức X.

2. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2022/HSST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, cụ thể như sau:

2.1. Hình phạt chính: Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38; Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Đức X 02 (hai) năm tù, tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2022.

2.2. Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Phạt tiền bị cáo Vũ Đức X số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Ghi nhận bị cáo Vũ Đức X đã nộp số tiền 10.200.000đ (mười triệu hai trăm nghìn đồng) tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm, tại Biên lai thu tiền số 0004885 ngày 18/5/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định (do anh Phạm Ngọc Đ1 nộp thay).

3. Về án phí: Bị cáo Vũ Đức X không phải chịu án phí phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 369/2023/HSPT

Số hiệu:369/2023/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về