TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 17 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 37/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. DƯƠNG QUANG M, sinh năm: 1974 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 8/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Ngọc Ch (Chết) và bà Nguyễn Thị C (Chết); có vợ và 04 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bắt, tạm giữ từ ngày 09/3/2023 đến ngày 15/3/2023. Hiện đang tại ngoại. (Có mặt)
2. DƯƠNG VĂN T, sinh năm: 1989 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn T và bà Bùi Thị Đoàn V; có vợ và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 05/6/2013 bị Trưởng Công an huyện T xử phạt hành chính số tiền 7.500.000 đồng về hành vi Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép; bị cáo bắt, tạm giữ từ ngày 09/3/2023 đến ngày 15/3/2023. Hiện đang tại ngoại. (Có mặt) - Người làm chứng:
1. Anh Võ Long X, sinh năm: 1995; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1965; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
3. Ông Phan Văn B, sinh năm: 1965; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
4. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm: 1985; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
5. Anh Trương Văn Th (Cu Lỳ), sinh năm: 1991; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt..)
6. Ông Phạm Văn B, sinh năm: 1966; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
7. Anh Trần Thái Th, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
8. Anh Bùi Văn Đ, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
9. Anh Hà Kh, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
10. Ông La Thành Ph, sinh năm: 1971; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
11. Ông Dương Văn T (T Muối), sinh năm: 1966; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
12. Anh Lê Ngọc H, sinh năm: 1981; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
13. Anh Đàm Xuân Th, sinh năm: 1989; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
14. Anh Trần Ngọc Đ, sinh năm: 1988; nơi cư trú: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
15. Anh Nguyễn Thế A (A), sinh năm: 1992; nơi cư trú: Thôn Th, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Dương Quang M làm nghề buôn bán tạp hóa tại nhà ở thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Để kiếm thêm thu nhập, M chuẩn bị công cụ gồm dừng cao su, xô nhựa, cân đồng hồ, băng keo và sử dụng địa điểm là chỗ ở của mình để các con bạc tự đưa gà đến đánh bạc dưới hình thức “Chọi gà” được thua bằng tiền. M không thu tiền xâu nhưng bán, mua thuốc lá của các con bạc thắng và hưởng chênh lệch giá 2.000 đồng/gói.
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09 tháng 3 năm 2023, Trần Thái Th, sinh ngày 23/12/1982, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, mang theo 01 con gà Ô và Võ Long X, sinh ngày 12/9/1995, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận mang 01 con gà Xám đến nhà Dương Quang M để “Chọi gà” được thua bằng tiền. Hình thức đánh bạc như sau: Các con bạc đặt tiền cược theo quy ước như sau: C (viết tắt của cây thuốc lá loại 555, 1c tương đương với 300.000 đồng); g (viết tắt của gói thuốc lá 555, 1g tương đương với 30.000 đồng), khi có 01 con gà bỏ chạy (không đá nữa) thì xác định kết quả thắng, thua. Khi có kết quả thắng, thua, người đặt cược sẽ mua thuốc lá của M sau đó quy đổi ra tiền. M tính giá thuốc lá thu mua vào là 30.000 đồng/gói và bán ra với giá 32.000 đồng/gói, hưởng lợi 2.000 đồng/gói. Lúc này, tại nhà M có nhiều người khác cùng xem đá gà và tự cược thêm với nhau bên ngoài theo tỷ lệ khác nhau (đá hàng xáo), các con bạc tham gia đánh bạc bằng cách nhặt mảnh giấy và các tờ lịch cũ để dùng làm tờ phơi rồi dùng bút bi để ghi chép người cược và số tiền cược. Trong đó, Dương Văn T, Phan Văn B, Nguyễn Hữu H, La Thanh Ph là những người cầm tờ phơi ghi cược. Lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày, Công an huyện T phối hợp Công an xã D bắt quả tang, tạm giữ công cụ, phương tiện có liên quan đến hành vi đánh bạc.
Tại thời điểm bắt quả tang chưa có kết quả thắng thua. Kết quả điều tra xác định các con bạc đã đặt cược với nhau số tiền như sau:
1. Dương Văn T đánh bạc với tổng số tiền 30.990.000 đồng (Ba mươi triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng), trong đó:
1.1. T đặt cược gà Xám thắng với những người đặt cược số tiền cụ thể như sau:
- 600.000 đồng ăn 360.000 đồng với người tên Th (chưa rõ thông tin, lai lịch);
- 6.000.000 đồng ăn 3.000.000 đồng với Trần Thái Th, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 300.000 đồng ăn 300.000 đồng với người tên S D (chưa rõ thông tin, lai lịch);
- 300.000 đồng ăn 300.000 đồng với Phạm Văn B, sinh ngày 01/01/1966, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 1.500.000 đồng ăn 600.000 đồng với Nguyễn Thế A sinh năm 1992 trú thôn Th, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 240.000 đồng ăn 300.000 đồng với Lê Ngọc H, sinh ngày 14/4/1981, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 300.000 đồng ăn 200.000 đồng với Lê Ngọc H, sinh ngày 14/4/1981, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 1.500.000 đồng ăn 1.500.000 đồng với người tên T (chưa rõ thông tin, lai lịch);
lịch);
- 450.000 đồng ăn 1.500.000 đồng với người tên Th (chưa rõ thông tin, lai - 750.000 đồng ăn 1.500.000 đồng với Hà Kh, sinh ngày 10/7/1993, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Như vậy, tổng số tiền Dương Văn T dùng để đánh bạc theo gà Xám là 11.940.000 đồng.
1.2. T đặt cược theo gà Ô thắng với số tiền đánh bạc cụ thể như sau:
- 750.000 đồng ăn 1.500.000 đồng với người D (chưa rõ thông tin, lai lịch);
- 1.500.000 đồng ăn 300.000 đồng với Phạm Văn B, sinh ngày 01/01/1966, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 3.000.000 đồng ăn 600.000 đồng với Trần Thái Th, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 750.000 đồng ăn 150.000 đồng với Hà Kh, sinh ngày 10/7/1993, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 750.000 đồng ăn 150.000 đồng với người tên Th (chưa rõ thông tin, lai lịch);
- 3.000.000 đồng ăn 300.000 đồng với Nguyễn Thế A, sinh năm 1992 trú thôn Th, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 3.600.000 đồng ăn 300.000 đồng với Nguyễn Văn S, sinh ngày 01/4/1985, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 1.500.000 đồng ăn 1.500.000 đồng với Võ Long X, sinh năm: 1995; nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 1.500.000 đồng ăn 750.000 đồng với Phạm Văn B, sinh ngày 01/01/1966, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
- 600.000 đồng ăn 300.000 đồng với người tên Th (chưa rõ thông tin, lai lịch);
- 600.000 đồng ăn 3000.000 đồng với Nguyễn Thế A, sinh năm 1992 trú thôn Th, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận;
Như vậy, tổng số tiền Dương Văn T dùng để đánh bạc theo gà Ô là 19.050.000 đồng.
2. Võ Long X, sinh ngày 12/9/1995, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, đánh bạc với tổng số tiền 3.150.000 đồng.
3. Trần Thái Th, sinh ngày 23/12/1982, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 3.750.000 đồng.
4. Phan Văn B, sinh ngày 12/8/1965, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 4.780.000 đồng.
5. Nguyễn Hữu H, sinh ngày 05/8/1965, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với tổng số tiền 992.000 đồng.
6. La Thành Ph, sinh ngày 03/6/1971, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, đánh bạc với tổng số tiền 2.910.000 đồng.
7. Lê Ngọc H, sinh ngày 14/4/1981, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, đánh bạc với tổng số tiền 1.800.000 đồng.
8. Trần Ngọc Đ, sinh ngày 07/8/1988, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 90.000 đồng.
9. Bùi Văn Đ, sinh ngày 19/5/1982, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 90.000 đồng.
10. Hà Kh, sinh ngày 10/7/1993, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với tổng số tiền 4.800.000 đồng.
11. Trương Văn Th, sinh ngày 01/01/1991, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với tổng số tiền 690.000 đồng.
12. Phạm Văn B, sinh ngày 01/01/1966, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với tổng số tiền 2.850.000 đồng.
13. Nguyễn Văn S, sinh ngày 01/4/1985, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 300.000 đồng.
14. Đàm Xuân Th, sinh ngày 01/01/1989, trú tại thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 90.000 đồng.
15. Nguyễn Thế A, sinh năm 1992 trú thôn Th, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với số tiền 1.200.000 đồng.
16. Dương Văn T (T Muối), sinh ngày 03/9/1966, trú tại thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận đánh bạc với tổng số tiền 645.000 đồng.
Tổng số tiền các con bạc đặt cược đá gà tại thời điểm bắt quả tang là 59.365.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 27/CT-VKSTN ngày 03 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Dương Quang M về tội “Gá bạc” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Dương Văn T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Gá bạc” và “Đánh bạc”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Dương Quang M phạm tội “Gá bạc”. Mức án từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng và phạt số tiền 20.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.
Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội “Đánh bạc”. Mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng và phạt số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.
Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo không nói lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau:
Ngày 09/3/2023 bị cáo Dương Quang M sử dụng nhà ở của mình ở thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận để cho 16 người đánh bạc trong cùng một lúc với tổng số tiền dùng đánh bạc trị giá 59.365.000đ (Năm mươi chín triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) nhằm mục đích trục lợi.
Ngày 09/3/2023 bị cáo Dương Văn T đã cố ý tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức chọi gà được thua bằng tiền trị giá 30.990.000đ (Ba mươi triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng), chưa thu lợi bất chính.
Xét thấy hành vi nêu trên của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội và đồng thời làm ảnh đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Dương Quang M về tội “Gá bạc” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Dương Văn T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; riêng bị cáo Dương Văn T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và trong quá trình công tác (Công an viên xã Phước Diêm) được Ủy ban nhân dân xã tặng giấy khen. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Về nhân thân: Bị cáo Dương Quang M có nhân thân tốt; bị cáo Dương Văn T có nhân thân xấu.
Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
Bị cáo Dương Quang M hiện nay có nơi cư trú rõ ràng, nghề nghiệp ổn định đủ điều kiện cho hưởng án treo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo Dương Văn T từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, tuy nhiên đã chấp hành xong việc nộp phạt năm 2013 và hiện nay bị cáo nơi cư trú rõ ràng, nghề nghiệp ổn định. Đối chiếu quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo thì bị cáo có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Các bị cáo có công việc ổn định nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền để nộp vào ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 321 và khoản 3 Điều 322 của Bộ luật hình sự.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000 đồng của bị cáo Dương Văn T.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) miếng dừng bằng cao su màu đen kích thước (9,3 x 0,63)m; 01 (Một) xô nhựa màu xanh cao 37cm, đường kính 30cm (đã cũ, qua sử dụng); 01 (Một) xô nhựa màu trắng cao 20cm, đường kính 20cm (đã cũ, qua sử dụng);
01 (Một) xô nhựa màu trắng – xanh cao 18cm, đường kính 19cm (đã cũ, qua sử dụng); 01 (Một) xô nhựa màu vàng cao 19cm, đường kính 20cm (đã cũ, qua sử dụng);
01 (Một) cân đồng hồ Nhơn Hòa loại 05kg đã cũ, qua sử dụng; 05 (Năm) cuộn băng keo vải loại (1,25 x 200)cm chưa qua sử dụng; 05 (Năm) lõi cuộn băng keo vải loại (1,25 x 200)cm đã qua sử dụng; 02 (Hai) cuộn băng keo đen rộng 1,7cm, đường kính 05cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) ống tiêm dài 09cm, đã qua sử dụng; 02 (Hai) ống thuốc Cortibion, đã qua sử dụng; 01 (Một) cuộn chỉ màu đen, lõi màu xanh, dài 12cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) cây kéo cắt chỉ màu xanh, đã qua sử dụng.
Đây là vật chứng dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước và tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho chủ sở hữu tài sản không liên quan đến vụ án, cụ thể: Trần Thái Th 01 (Một) điện thoại di động hiệu IPHONE 8 màu đen và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE biển kiểm soát 85E1-197.50; bị cáo Dương Quang M 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO A94 màu đen; bị cáo Dương Văn T 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO A93 màu đen; La Thành Ph 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen; Võ Long X 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO A74 màu xanh và 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER biển kiểm soát 85E1-092.52; Nguyễn Hữu H 01 (Một) điện thoại di động hiệu FORME màu đen; Phan Văn B 01 (Một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Tạm giữ, chuyển số tiền 1.020.000 đồng của Võ Long X và 4.180.000 đồng của Phan Văn B cùng với hồ sơ để đề nghị xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Riêng 01 (Một) con gà trống lông màu xàm (gà Xám) và 01 (Một) con gà trống lông màu đen (gà Ô) đã chết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiêu hủy là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Dương Quang M phạm tội “Gá bạc”.
Xử phạt bị cáo Dương Quang M 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án (Ngày 17/8/2023).
Giao bị cáo Dương Quang M cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ khoản 3 Điều 322 của Bộ luật hình sự.
Phạt bị cáo Dương Quang M số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Dương Văn T 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án (Ngày 17/8/2023).
Giao bị cáo Dương Văn Tâm cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
Phạt bị cáo Dương Văn T số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000đ (Hai trăm ba mươi nghìn đồng) của bị cáo Dương Văn T theo Ủy nhiệm chi, Lập ngày 06 tháng 7 năm 2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện T.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) miếng dừng bằng cao su màu đen kích thước (9,3 x 0,63)m; 01 (Một) xô nhựa màu xanh cao 37cm, đường kính 30cm (đã cũ, qua sử dụng); 01 (Một) xô nhựa màu trắng cao 20cm, đường kính 20cm (đã cũ, qua sử dụng);
01 (Một) xô nhựa màu trắng – xanh cao 18cm, đường kính 19cm (đã cũ, qua sử dụng); 01 (Một) xô nhựa màu vàng cao 19cm, đường kính 20cm (đã cũ, qua sử dụng);
01 (Một) cân đồng hồ Nhơn Hòa loại 05kg đã cũ, qua sử dụng; 05 (Năm) cuộn băng keo vải loại (1,25 x 200)cm chưa qua sử dụng; 05 (Năm) lõi cuộn băng keo vải loại (1,25 x 200)cm đã qua sử dụng; 02 (Hai) cuộn băng keo đen rộng 1,7cm, đường kính 05cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) ống tiêm dài 09cm, đã qua sử dụng; 02 (Hai) ống thuốc Cortibion, đã qua sử dụng; 01 (Một) cuộn chỉ màu đen, lõi màu xanh, dài 12cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) cây kéo cắt chỉ màu xanh, đã qua sử dụng (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06 tháng 7 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Dương Quang M, Dương Văn T mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 17/8/2023).
(Đã giải thích chế định án treo cho các bị cáo Dương Quang M, Dương Văn T)
Bản án về tội đánh bạc số 36/2023/HS-ST
Số hiệu: | 36/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về