TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 29 tháng 6 năm 2023, tại Phòng xử A, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1/ Ngô Trần T; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 19/10/1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: đường T, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường T, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô D và bà Trần Thị S; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án:
- Ngày 04/3/1997, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (Theo Bản án số 54/HSST). Ngày 04/8/1997 chấp hành xong hình phạt tù, chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm.
- Ngày 19/7/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân”, (Theo Bản án số 1916/HSST) . Ngày 21/01/2003 chấp hành xong hình phạt tù, chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm.
- Ngày 06/01/2009, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, (Th eo Bản án số 02/2009/HSST). Ngày 06/10/2011 chấp hành xong hình phạt tù.
- Ngày 09/7/2013, bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, (Theo Bản án số 148/2013/HS-ST). Ngày 27/01/2022, chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự:
Không có; nhân thân: Không có; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2022 tại Nhà Tạm giữ Công an Quận 11 cho đến nay; (Có mặt).
2/ Nguyễn Văn Quốc N; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 22/8/1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: chung cư L đường Đ, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: đường T, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc L và bà Văn Thị Tuyết M; bị cáo có vợ nhưng đã ly hôn, có 1 con sinh năm 2010; tiền án: Ngày 15/01/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo bản án số 04/2015/HSST). Ngày 28/9/2021, chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: Không có; nhân thân: Không có; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2022 tại Nhà Tạm giữ Công an Quận 11 cho đến nay; (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Đinh Thị Diễm M, sinh năm 1992; địa chỉ: đường D, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).
2. Bà Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1972; địa chỉ: đường B, Phường 14, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 21/10/2022, tại trước số 339C Lạc Long Quân, Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 11 tuần tra phát hiện các đối tượng có biểu hiện nghi vấn gồm Lê Ngọc H điều khiển xe môtô biển số 59X2-907.98 chở Võ Thị Thu H1, Nguyễn Đức N điều khiển xe môtô biển số 69K1-3998 chở Phòng Quang P nên tiến hành kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, H1 cầm trên tay 01 túi nylong bên trong túi có 05 cuốn tập học sinh, bên trong các cuốn tập viết nội dung thu tiền góp, 04 tờ giấy đôi ghi nội dung vay tiền, 03 tờ giấy đôi ghi nội dung thu tiền góp, nên đưa H1 về trụ sở Công an Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản vụ việc.
H1 khai đi thu tiền góp hàng ngày cho Nguyễn Văn Quốc N.
Đến khoảng 22 giờ ngày 21/10/2022, tại bên hông nhà số 144 Ông Ích Khiêm, Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 11, phát hiện Nguyễn Văn Quốc N điều khiển xe môtô biển số 65F1-496.42 chở Nguyễn Thị Th có biểu hiện nghi vấn, nên kiểm tra phát hiện trong cốp xe 01 cuốn tập học sinh bên trong có ghi chép nội dung cho vay tiền và ghi số đề nên đưa về trụ sở Công an Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh làm việc, phát hiện trong điện thoại của N có nội dung ghi số đề. N thừa nhận hành vi bán số đề cùng với Ngô Trần T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 mời T đến làm việc.
Ngày 24/10/2022, Ngô Trần T và Nguyễn Văn Quốc N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về hành vi “Đánh bạc” để điều tra.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Ngô Trần T và Nguyễn Văn Quốc N thừa nhận hành vi phạm tội như sau: Vào ngày 21/10/2022, T đến quán cà phê No01 Corner tại số 001 Lô C1 Chung cư Lý Thường Kiệt, Phường 7, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh để uống cà phê, tại đây T gặp người bạn tên Hùng (chưa xác định lai lịch), Hùng hỏi có bán số đề không để Hùng giao phơi đề, T đồng ý. Sau đó, T liên lạc rủ N hùn tiền để bán số đề, N đồng ý. N tạo nhóm tên “6789” trên ứng dụng “Viber” để nhận phơi đề từ khách mua số đề, được thua bằng tiền. Khi khách mua những số đề nào thì T sẽ chụp gửi lên nhóm “6789” trên “Viber” cho N xem, nếu đồng ý N sẽ nhắn tin trả lời xác nhận. N và T thỏa thuận nếu thắng được tiền thì sẽ chia đôi, nếu thua sẽ cùng góp tiền lại trả thưởng.
Cách thức đánh bạc (ghi số đề) như sau: nếu khách ghi 02 số 1.000 đồng trúng thưởng 70.000 đồng, ghi 03 số 1.000 đống trúng thưởng 600.000 đồng, ghi 04 số 1.000 đồng trúng thưởng 5.000.000 đồng, số đá xuyên 02 đài 1.000 đồng trúng thưởng 500.000 đồng và chỉ lấy 75% trên tổng số tiền mà khách mua số đề.
Vào ngày 21/10/2022, T nhận số đề từ khách (không rõ lai lịch) sau đó gửi lên nhóm “6789” cho N với 21 phơi đề, N đã xác nhận đồng ý. Số tiền đánh bạc từ những phơi đề qua tin nhắn Viber là 58.843.000 đồng, tiền trúng thưởng là:
35.440.000 đồng, tổng cộng 94.283.000 đồng. Qua điều tra xác định được 02 người mua số đề trực tiếp của N vào ngày 21/10/2022 số tiền 6.912.000 đồng, gồm: Nguyễn Thị Thu Th ghi số đề với số tiền 1.570.000 đồng, trúng thưởng là 1.400.000 đồng, số tiền Thủy đánh bạc là 2.970.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã thu giữ số tiền 1.570.000 đồng Thủy sử dụng để mua số đề; Đinh Thị Diễm M ghi số đề với số tiền 3.942.000 đồng (không trúng thưởng), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã thu giữ số tiền 3.942.000 đồng M sử dụng để mua số đề. Tổng số tiền N và T đánh bạc vào ngày 21/10/2022 là 101.195.000 đồng. Ngày 21/10/2022, T và N chỉ mới nhận phơi đề, chưa nhận tiền chơi đề của khách cũng như chưa chung tiền thắng thua. N, T khai mới ghi đề ngày đầu tiên và Th, M mua số đề của N lần đầu tiên, lời khai của N, T, Th, My phù hợp với nhau.
Vật chứng vụ án:
- Đối với xe môtô biển số 65F1-496.42 thu giữ của Nguyễn Văn Quốc N. N khai xe này của bạn gái tên Nguyễn Thị Th. Qua điều tra xác định chị Th là chủ sở hữu xe trên. Vào ngày 21/10/2022, N điều khiển xe máy trên chở chị Th đến trước số 144 Ông Ích Khiêm, Phường 5, Quận 11 thì bị Công an Quận 11 kiểm tra hành chính phát hiện trong cốp xe có 01 cuốn tập học sinh bên trong có ghi chép nội dung cho vay tiền và ghi số đề. Chị Th cho biết cuốn tập học sinh trên là của N, chị Th không biết việc N cho vay tiền và ghi số đề. Lời khai của Th phù hợp với lời khai của N. Ngày 09/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 11 đã trả xe trên cho chị Th.
- Đối với đồ vật, tài liệu thu giữ của Võ Thị Thu H1: 01 (một) điện thoại di động Oppo A5s, màu xanh; 05 (năm) quyển tập học sinh; 04 (bốn) giấy vay tiền của Huỳnh Cẩm Mỹ Tr, Huỳnh Mỹ H, Trần Thị H1; 03 (ba) tờ giấy đôi. Nhận thấy, các đồ vật, tài liệu trên không liên quan đến vụ án đang điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tách riêng để tiếp tục xác minh làm rõ nguồn gốc, xử lý theo quy định pháp luật.
- Đối với xe môtô biển số 59X2-907.98 tạm giữ của Lê Ngọc H, H khai xe này của khách đem đến sửa xe, H lấy đi. Xe môtô biển số 69K1-3998 tạm giữ của Nguyễn Đức Nh, Nh khai xe trên mua trên mạng xã hội với giá 5.000.000 đồng không làm giấy mua bán. Các xe trên do không liên quan đến hành vi vi phạm của Võ Thị Thu H1 nên Công an Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển đến Đội Cảnh sát giao thông trật tự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết trước khi chuyển hồ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động loại Iphone 12, màu đen N dùng để đánh bạc; 01 (một) điện thoại di động loại Iphone 13 Promax, màu xanh T dùng để đánh bạc và 5.512.000 đồng (là tiền Đinh Thị Diễm M và Nguyễn Thị Thu Th dùng đánh bạc). Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đang tạm giữ.
- Lưu vào hồ sơ vụ án: 01 (một) quyển tập học sinh của N; 01 (một) phơi đề ngày 21/10/2022 có chữ ký của Đinh Thị Diễm M; 01 (một) phơi đề ngày 21/10/2022 có chữ ký của Nguyễn Thị Thu Th và 01 (một) đĩa DVD chứa dữ liệu ghi âm, ghi hình.
Tại Bản cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 19/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Ngô Trần T tội danh “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 321; bị cáo Nguyễn Văn Quốc N tội danh “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo T, bị cáo N có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù; bị cáo N từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động loại Iphone 12, màu đen; 01 điện thoại di động loại Iphone 13 Promax, màu xanh các bị cáo dùng để đánh bạc và số tiền 5.512.000 đồng.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 22 giờ ngày 21/10/2022, tại bên hông nhà số 144 đường Ông Ích Khiêm, Phường 5, Quận 11. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Trật tự xã hội Công an Quận 11 kiểm tra và phát hiện Nguyễn Văn Quốc N có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số đề. Tiến hành điều tra xác định được N thực hiện hành vi mua bán số đề cùng với Ngô Trần T. Cả hai thỏa thuận nếu thắng được tiền sẽ chia đôi, nếu thua sẽ cùng góp tiền trả thưởng cho người chơi, căn cứ vào kết quả sổ xố hàng ngày của các công ty xổ số kiến thiết trong phạm vi cả nước làm cơ sở thắng thua. Trong ngày 21/10/2022, các bị cáo T, N đã thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức mua bán đề với số tiền đánh bạc được Cơ quan điều tra Công an Quận 11 xác định là 101.195.000 đồng. Trong những người mua số đề của các bị cáo xác định được 02 người mua số đề là Đinh Thị Diễm M dùng số tiền để đánh bạc là 3.942.000 đồng và Nguyễn Thị Thu Th số tiền dùng để đánh bạc là 2.970.000 đồng.
Hành vi của các bị cáo bị Công an Quận 11 phát hiện, bắt giữ sau khi có kết quả mở thưởng của các Công ty xổ số kiến thiết. Do đó, số tiền dùng vào việc đánh bạc là tổng số tiền mà các bị cáo và người mua đề đã bỏ ra để mua số đề được xác định thông qua kiểm tra, đối chiếu số tiền ghi phơi đề, số tiền thể hiện qua các tin nhắn trên điện thoại di động.
Hành vi của bị cáo T, bị cáo N đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Ngày 09/7/2013, bị cáo Ngô Trần T bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 148/2013/HS-ST. Tại bản án này, bị cáo đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo T thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Ngô Trần T tội danh “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 321; bị cáo Nguyễn Văn Quốc N tội danh “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 là đúng quy định pháp luật.
Các bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ là thu lợi bất chính.
Đối với hành vi đánh bạc của Đinh Thị Diễm M với số tiền là 3.942.000 đồng và Nguyễn Thị Thu Th với số tiền là 2.970.000 đồng, chưa đến mức để truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua điều tra M, Th không có tiền án, tiền sự liên quan đến hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Ngày 20/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hình chính về hành vi đánh bạc trái phép, đối với M và Th mỗi người 350.000 đồng.
Đối với Võ Thị Thu H1 khai nhận đi thu tiền góp cho N, thu giữ 01 cuốn tập học sinh có ghi nội dung cho vay tiền và phơi đề của Th, M. N cho biết về nội dung thể hiện việc cho vay tiền trong cuốn tập học sinh là N cho bạn (không rõ lai lịch) vay không có lãi suất, hiện bạn của N đã trả hết số tiền vay, N không thừa nhận việc cho vay tiền góp theo như lời khai của H1. Ngoài lời khai của H1, không còn tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự đối với N. Hiện H1 đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 11 đã ra Quyết định truy tìm, khi tìm được H1 sẽ điều tra làm rõ hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự đối với N và H1.
Đối với Nguyễn Thị Th không biết việc Nguyễn Văn Quốc N ghi số đề, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 không xử lý.
Đối với Lê Ngọc H, Phòng Quang P và Nguyễn Đức Nh khai nhận không biết việc cho vay của Võ Thị Thu H1, không bàn bạc, phân công vai trò, không được hưởng lợi từ việc cho vay của H1 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh không xử lý.
Đối với những người mua số đề của các bị cáo T và N do không xác định được lại lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh chưa có cơ sở để xử lý, khi nào truy xét được sẽ xử lý sau.
[2] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Ngày 15/01/2015, bị cáo N bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo bản án số 04/2015/HSST). Ngày 28/9/2021, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án. Bị cáo N đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) điện thoại di động loại Iphone 12, màu đen của bị cáo N;
01 (một) điện thoại di động loại Iphone 13 Promax, màu xanh của bị cáo T đây là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội và số tiền 5.512.000 đồng là tiền Đinh Thị Diễm M và Nguyễn Thị Thu Th dùng để đánh bạc nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
- Đã lưu vào hồ sơ vụ án: 01 (một) quyển tập học sinh thu giữ của N; 01 (một) phơi đề ngày 21/10/2022 có chữ ký của Đinh Thị Diễm M; 01 (một) phơi đề ngày 21/10/2022 có chữ ký của Nguyễn Thị Thu Th và 01 (một) đĩa DVD chứa dữ liệu ghi âm, ghi hình.
[4] Về xem xét phạt tiền bổ sung đối với các bị cáo:
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận mới ghi đề ngày đầu tiên, chưa lấy tiền của người mua đề, không có thu lợi bất chính. Ngoài lời khai nhận của các bị cáo thì không có căn cứ nào khác thể hiện các bị cáo đã thực tế hưởng lợi bao nhiêu tiền nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 17, Điều 50; Điều 58; điểm b, d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Ngô Trần T;
Căn cứ vào Điều 17, Điều 50; Điều 58; điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn Quốc N;
Tuyên bố các bị cáo Ngô Trần T, Nguyễn Văn Quốc N phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Ngô Trần T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2022.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Quốc N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2022.
Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động loại Iphone 12, màu đen; 01 (một) điện thoại di động loại Iphone 13 Promax, màu xanh;
1.570.000 đồng (Một triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng) tiền Việt Nam thu giữ của Nguyễn Thị Thu Th và 3.942.000 đồng (Ba triệu chín trăm bốn mươi hai nghìn đồng) tiền Việt Nam thu giữ của Đinh Thị Diễm M.
(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 28/LNK-ĐCSHS ngày 20/3/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án về tội đánh bạc số 35/2023/HS-ST
Số hiệu: | 35/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về