Bản án về tội đánh bạc số 34/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 34/2023/HS-PT NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2023/HSPT ngày 26 tháng 6 năm 2023, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Văn S, sinh năm 1981 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn 6, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M (đã chết) và bà Trần Thị T; vợ Trần Thị Hải H; con: có 02 con, con lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 04 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Đánh bạc”.

Ngày 27/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”từ ngày 08/02/2023 đến nay; có mặt.

2. Trần Đức S, sinh năm 1970 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức Q và bà Trần Thị Đ (đều đã chết); vợ Trần Thị L; con: có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 13/3/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Đánh bạc”.

Ngày 30/9/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng 24 ngày tù về tội “Đánh bạc”.

Ngày 19/11/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 08 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”từ ngày 08/02/2023 đến nay; có mặt.

3. Trần Nhật V, sinh năm 1960 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn 7, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nhật B và bà Trần Thị N (đều đã chết); vợ Trần Thị C (đã chết); con: có 02 con,lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 20/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”từ ngày 08/02/2023 đến nay; có mặt.

* Người làm chứng:Anh Trần Đức T và ông Trần Huy C; đều vắng mặt. Trong vụ án còn có các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập: Trần Sỹ H, sinh năm 1971; nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam và Trần Quang T, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn 6, xã T, huyện L, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/01/2023, tại gian bếp nhà Trần Sỹ H có Trần Sỹ H, Trần Văn S, Trần Quang T, Trần Nhật V ngồi xem bóng đá. Lúc này Trần Văn S nói: “Nay bóng đá anh em làm tý”, ý S rủ đánh bạc dưới hình thức chơi “liêng” được thua bằng tiền thì H, T, V đồng ý. H đi mua bộ bài tú lơ khơ rồi cùng S, T, V ngồi xuống chiếu đã được trải sẵn dưới nền bếp bắt đầu đánh bạc. Bốn người chơi đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì Trần Đức S đến, T rủ S tham gia đánh bạc thì S nói: “Không biết chơi liêng, chỉ biết chơi ba cây”. Do H vừa thua hết tiền, còn S không tham gia nên T, V, S ngồi đánh bạc bằng hình thức chơi “ba cây” với nhau được khoảng 10 phút thì V đứng dậy đi vệ sinh nên Trần Văn S vào tham gia đánh bạc với S và T được khoảng 4 đến 5 ván, khi V vào chơi thì Trần Văn S lại không tham gia nữa. Ba người gồm V, T, S tiếp tục đánh bạc đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Tiến Thắng phát hiện lập biên bản vụ việc.

* Cách thức chơi “liêng” các đối tượng quy định: Người cầm cái dùng bộ bài 52 quân chia cho mỗi người chơi ba quân bài sau đó tính điểm theo thứ tự từ lớn đến nhỏ như sau: Sáp là bài có 3 quân giống nhau, như AAA..; Liêng là bài có 3 quân liên tiếp, như QKA...; tiếp theo đến Ảnh là bài có 3 quân hình đầu người như KKQ….; cộng điểm là bài không thuộc các trường hợp nêu trên với cách tính quân bài Át đến 9 tương ứng từ 1 đến 9 điểm, các quân bài từ 10, J, Q, K được tính là 0 điểm. Cộng ba quân bài lại, lấy hàng đơn vị để so điểm, cao nhất là 9 điểm, nhỏ nhất là 0 điểm. Trường hợp bài bằng điểm thì so về chất theo thứ tự lần lượt là cơ, rô, tép, bích. Trước khi người cầm cái chia bài, người chơi bỏ 20.000đ vào giữa chiếu gọi là tiền “gà”. Người cầm cái được quyền tố đầu tiên. Trong ván bài, nếu thấy bài của mình nhỏ, người chơi có thể chọn úp bài và bị mất số tiền đã vào gà. Nếu người chơi không chọn úp bài, thì tiếp tục theo bằng với số tiền của người ở cửa trên đã tố hoặc tố cao hơn nhưng tối đa không quá 100.000đ/một lần tố, tố xong thì mở bài ra để đọ, bài ai lớn nhất thì được toàn bộ số tiền mà những người chơi khác đã bỏ ra.

* Cách thức chơi “ba cây”các đối tượng quy định: Mức tiền đặt “chống cửa” thấp nhất là 50.000 đồng, không quy định mức đặt tối đa. Sau đó, người chơi lấy các quân bài từ Át đến 9, bỏ đi các quân 10, J, Q, K rồi người cầm chương chia cho mỗi người chơi 03 quân bài để cộng điểm. Cách tính điểm quân Át đến 9 tương ứng 1 đến 9 điểm. Nếu bằng điểm nhau thì tính theo chất theo thứ tự: Cơ, Rô, Tép, Bích. Nếu điểm cao hơn người cầm chương thì người cầm chương phải trả cho người chơi số tiền tương ứng số tiền người chơi đã đặt, nếu điểm thấp hơn người cầm chương thì người chơi mất hết số tiền đã đặt. Ai được mười điểm thì được gấp đôi số tiền đặt cửa, được sáp thì nhân 3 số tiền đặt cửa. Trong khi chơi nếu ván nào có người được 10 điểm thì sẽ được chuyển cho người đó cầm chương.

Khi lập biên bản vụ việc đã thu giữ: Thu trên chiếu nơi các đối tượng đánh bạc 01 chiếu cói, 01 bộ bài tú lơ khơ và số tiền 2.850.000 đồng; Thu trên người Trần Văn S số tiền 19.050.000 đồng, Trần Quang T số tiền 1.060.000 đồng, Trần Văn S số tiền 7.840.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu IphoneX, Trần Nhật V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận đã sử dụng số tiền 30.800.000 (Ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng) vào việc đánh bạc. Trần Văn S sử dụng khoảng 8.000.000 đồng, Trần Quang T sử dụng 2.200.000 đồng, Trần Nhật V sử dụng 1.000.000 đồng, Trần Sỹ H sử dụng 200.000 đồng, Trần Đức S sử dụng 19.550.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: 01 bộ bài tú lơ khơ, 01 chiếu cói đã qua sử dụng và số tiền 30.800.000 (Ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng) đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân. Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của Trần Văn S và Trần Nhật V, căn cứ kết quả điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Sơn và Vinh không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả 02 chiếc điện thoại trên cho S và V.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều17; Điều 58;

khoản 3 Điều 321 và Điều 35 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn S, Trần Đức S và Trần Nhật V phạm tội "Đánh bạc". Xử phạt bị cáo Trần Văn S 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.Xử phạt bị cáo Trần Đức S 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Xử phạt Bị cáo Trần Nhật V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền các bị cáo Trần Văn S và Trần Đức S mỗi bị cáo 5.000.000 (Năm triệu) đồng.

Bản án sơ thẩm cũng đã xử phạt Trần Sỹ H 18 (Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng và bị cáo Trần Quang T 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 26/5/2023, bị cáo Trần Đức S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù, xin hưởng án treo và xin miễn hình phạt bổ sung.

Ngày 29/5/2023, Bị cáo Trần Nhật V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin hưởng án treo. Bị cáo Trần Văn S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin miễn hình phạt bổ sung.

Tại phiên tòa phúc thẩmbị cáo Trần Văn S xin rút toàn bộ kháng cáo, các bị cáo Trần Đức S và Trần Nhật V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã xác định.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam:

Căn cứ Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 (đối với bị cáo S); điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 (đối với bị cáo S) điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự (đối với Bị cáo V).

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trần Văn S; Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Trần Văn S. Chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đức S. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa ánnhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về hình phạt đối với bị cáoTrần Đức S. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Bị cáo Trần Nhật V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về hình phạt đối với Bị cáo Trần Nhật V.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Trần Đức S và Trần Nhật V phạm tội "Đánh bạc". Xử phạt bị cáo Trần Đức S từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Xử phạt Bị cáo Trần Nhật V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo không tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáoTrần Văn Sơn,Trần Đức S và Trần Nhật V trong trong thời hạn luật định, nội dung bảo đảm theo quy định tại Điều 332 Bộ luật hình sự nên là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn S tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trần Văn S; Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Trần Văn S kể từ ngày tuyên án phúc thẩm [3]Về tội danh: Tại phiên toà các bị cáo Trần Đức S và Trần Nhật V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Do đó đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 19 giờ 30 phút đến 22 giờ 30 phút ngày 03/01/2023, tại gian bếp nhà Trần Sỹ H thuộc thôn 5, xã T, huyện L, các bị cáoTrần Đức S, Trần Nhật V và các bị cáo khác đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi “liêng” và “ba cây” được thua bằng tiền, các bị cáo đánh bạc đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Tiến Thắng phát hiện lập biên bản. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 30.800.000 (Ba mươi triệu tám trăm nghìn) đồng. Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã quyết định tuyên bố các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an. Tệ nạn cờ bạc diễn ra dưới nhiều hình thức ăn tiềnkhông chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân 5 người chơi và gia đình của họ mà còn là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do đó cần phải xử phạt nghiêm đối với các bị cáo.

Các bị cáo không phải chịutiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cai đối vơi hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ các bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Trong vụ án này, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nên có tính chấtđồng phạm giản đơn, không có bàn bạc trước.

- Xét kháng cáo của bị cáo Trần Đức S:

Về kháng cáo xin hưởng án treo: Bị cáo S là người có nhân thân rất xấu, nhiều lần bị Tòa án xét xử về tội phạm cùng loại. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung cho xã hội.

Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Tại cấp phúc thẩm, bị cáo giao nộp đơn xin xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị cáo có nhiều bệnh đang điều trị, bị cáo là lao động chính đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, trong vụ án này, bị cáo có vai trò thứ yếu, còn bị cáo S mới là người có vai trò chính; bị cáo tham gia một hình thức đánh bạc. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đức S để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải.

Về kháng cáo xin miễn hình phạt bổ sung: Tuy bị cáo giữ vai trò thứ yếu nhưng bị cáo có số tiền tham gia đánh bạc lớn nhất vì vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung số tiền là 5.000.000 đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 321 và Điều 35 Bộ luật hình sự. Do đó, yêu cầu kháng cáo này của bị cáo không có căn cứ, không được chấp nhận.

- Xét kháng cáo của Bị cáo Trần Nhật V:

Về kháng cáo xin hưởng án treo: Bị cáo V là người có nhân thân xấu, từng bị Tòa án xét xử về tội phạm cùng loại. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung cho xã hội.

Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Quá trình xét xử, tòa án đã xem xét toàn diện về nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn phù hợp. Bị cáo trực tiếp tham gia cả hai hình thức đánh bạc. Mức hình phạt 12 tháng tù cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với vai trò, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[5] Về án phí: Do kháng cáo của Bị cáo Trần Nhật V không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo Trần Văn S rút toàn bộ kháng cáo và một phần kháng cáo của bị cáo Trần Đức S được chấp nhận nên các bị cáo S và S không phải chịu án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348; điểm đ khoản 1 Điều 355(đối với bị cáo S); điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 (đối với bị cáo S) điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự (đối với Bị cáo V).

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trần Văn S. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Trần Văn S kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày 09/8/2023).

Chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đức S. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về hình phạt đối với bị cáo Trần Đức S.

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Bị cáo Trần Nhật V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2023/HS-ST ngày 16/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về hình phạt đối với Bị cáo Trần Nhật V.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; (khoản 3 Điều 321 và Điều 35 Bộ luật hình sự đối với bị cáo S) Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Trần Đức S và Trần Nhật V phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáoTrần Đức S 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt Bị cáo Trần Nhật V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung:

Phạt bị cáo Trần Đức S 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Nhật V phải chịu 200.000 đồng. Các bị cáo Trần Văn S và Trần Đức S không phải chịu.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 34/2023/HS-PT

Số hiệu:34/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về