Bản án về tội đánh bạc số 33/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03/7/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2020/TLST-HS ngày 20/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST- HS ngày 19/6/2020 đối với bị cáo: Lê Thị H; Sinh ngày: 12/4/1978; Nơi sinh: Xã Đ, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Lê Quang T và bà Hoàng Thị H3; Có chồng: Nguyễn Thế T1 và 03 con; Tiền án: 01 (Ngày 10/01/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” và buộc phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại bản án số 02/2019/HS- ST. Bị cáo thi hành xong toàn bộ bản án vào ngày 11/02/2020); Tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 12/3/2020 đến nay; Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Võ Duy H1; Sinh năm: 1958; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn H, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt + Bà Hoàng Thị L; Sinh năm 1959; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn H, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Ông Trần Phúc S; Sinh năm: 1963; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn H, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Ông Võ Quang C; Sinh năm: 1959; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn T, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Ông Võ Quốc H2; Sinh năm: 1960; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn T, xã Thuần T, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Ông Nguyễn Văn T; Sinh năm: 1963; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn Trường T, xã Thuần T, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Ông Võ Tôn Tr; Sinh năm: 1950; Nghề nghiệp: Hưu trí; Địa chỉ: Thôn T, xã Thiên L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

- Người đại diện theo pháp luật của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị X; Sinh năm 1950; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn T, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (Là vợ và là người đại diện theo pháp luật của ông Võ Tôn Tr); Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Võ Văn K; Sinh năm: 1954; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn H, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Anh Phan Văn N; Sinh năm 1973; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ:

Thôn H, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 12/02/2020, Trần Phúc S và Võ Quang C, đến nhà vợ chồng anh Võ Duy H1, chị Hoàng Thị L chơi. Thấy có bộ bài tú lơ khơ 52 quân được để sẵn trên chiếu nhựa nên S, C và H1 rủ nhau đánh bài ăn tiền bằng hình thức đánh “phỏm”. Sau đó Võ Quốc H2 đến chơi và cùng tham gia đánh bạc. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Võ Tôn Tr, Nguyễn Văn T, và Lê Thị H lần lượt đến nhà Võ Duy H1 và xin cùng tham gia đánh bạc. Do đông người nên các đối tượng thống nhất chuyển sang đánh bạc bằng hình thức đánh bài “liêng”. Hình thức đánh và mức độ sát phạt cụ thể như sau: Những người chơi sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân để đánh bạc; trong mỗi ván bài trước lúc chia bài mỗi người tham gia đặt tiền trước 10.000 đồng (gọi là dâm tẩy), người chia bài (người cầm cái) đặt 20.000 đồng (gọi là mậu tẩy). Người chia bài chia cho mỗi người chơi 03 quân bài, sau đó tính điểm các quân bài đã được chia của mỗi người. Nếu trong ván đó không có ai bỏ tiền chơi tiếp thì người chia bài thắng số tiền "dâm tẩy" tại chiếu. Nếu có người tham gia đặt tiền tiếp (gọi là "tố") thì ván bài tiếp tục và những người tham gia "tố" với mức tiền từ thấp đến cao, mức “tố”cao nhất là 100.000 đồng. Cách thức tính điểm như sau: Các quân bài từ 10, J, Q K tính là 0 điểm, quân Át tính là 01 điểm, các quân bài từ 2 đến 9 tính với số điểm tương ứng từ 2 điểm đến 9 điểm. Cộng điểm ba quân bài được chia, nếu điểm quá 10 thì lấy hàng đơn vị, điểm cao nhất là 9. Nếu cả ba quân bài số thứ tự giống nhau gọi là "sáp", "sáp" cao nhất là ba quân Át. Nếu ba quân có số thứ tự liên tiếp gọi là "liêng", "liêng" cao nhất là Q, K, A. Nếu cả ba quân bài đều là hình người gọi là "cọc cạch", "cọc cạch" cao nhất là K, K ,Q. Trong đó, thứ tự từ cao đến thấp là "sáp", "liêng", "cọc cạch" và điểm. Trường hợp giống nhau thì so sánh chất của quân bài cao nhất theo thứ tự từ cao đến thấp là: "rô", "cơ", "chuồn", "bích". Số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc là 2.060.000 đồng, trong đó Võ Duy H1 sử dụng 500.000 đồng, Trần Phúc S sử dụng 160.000 đồng, Võ Quang C sử dụng 350.000 đồng, Võ Quốc H2 sử dụng 350.000 đồng, Nguyễn Văn T sử dụng 370.000 đồng, Võ Tôn Tr sử dụng 230.000 đồng và Lê Thị H sử dụng 100.000 đồng.

Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang say sưa sát phạt thì bị Công an xã Thiên Lộc phát hiện hành vi đánh bạc trái phép, lập biên bản vi phạm và thu giữ các tang vật gồm: 1.850.000 đồng tại chiếu bạc;

02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ 52 quân bài; 01 chiếc chiếu nhựa và thu giữ trong người của Nguyễn Văn T số tiền 210.000 đồng, trong người của Trần Phúc S 1.000.000 đồng.

Ngày 11/5/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc ban hành bản kết luận điều tra số 32/KLĐT đề nghị truy tố Lê Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Ngày 18/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc truy tố Lê Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự tại Cáo trạng số 34/CT-VKS-CL.

Ngày 20/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc chuyển toàn bộ hồ sơ sang Tòa án nhân dân huyện Can Lộc. Tòa án nhân dân huyện Can Lộc đã thụ lý vụ án và mở phiên tòa đúng quy định.

Về vật chứng, tài sản: Hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Can Lộc: 2060.000 đồng; 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài; 01 chiếc chiếu nhựa.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận đã thực hiện hành vi đánh bạc trái phép cùng với 06 người khác tại nhà ông Võ Duy H1 như cáo trạng truy tố. Những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đều thừa nhận việc đánh bạc chỉ có 07 người tham gia, không có ai giúp sức, cảnh giới, cắt tiền hồ. Ông Trần Phúc S khẳng định số tiền 1.000.000 đồng cất trong ví để trong người là để mua phân bón, không sử dụng vào việc đánh bạc. Ông Sơn cũng trình bày đã nhận lại được số tiền này, không có khiếu nại gì.

Lời khai có trong hồ sơ của ông Võ Duy H1, Võ Tôn Tr đều thống nhất việc đánh bạc chỉ có 07 người tham gia, không có ai giúp sức, cắt tiền hồ.

Lời khai có trong hồ sơ của chị Hoàng Thị L phản ánh tại thời điểm xảy ra việc đánh bạc thì chị Lan không có mặt ở nhà. Đồng thời chị Lan cũng không yêu cầu được nhận lại chiếc chiếu mà cơ quan công an thu giữ của gia đình.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1,3 Điều 321; tiết thứ nhất điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 32, Điều 38, Điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 07 đến 09 tháng tù; phạt bổ sung đối với bị cáo từ 10- 12 triệu đồng; Tịch thu, tiêu hủy 02 bộ bài tu lơ khơ 52 quân đã qua sử dụng và 01chiếc chiếu nhựa; Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.060.000 đồng;

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhận thức được sai phạm, xin được hưởng khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, chồng đau yếu, con đang tuổi ăn học.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (ông Sơn, ông Hùng, ông Tình) đều xin xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo, xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Kiểm sát viên cho rằng mức án đề nghị là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội, bị cáo không đủ điều kiện để hưởng án treo hay giảm mức hình phạt nhẹ hơn nên bảo lưu quan điểm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Xét hành vi của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vì động cơ tư lợi, từ khoảng 15 giờ 00 phút đến 16 giờ 15 phút ngày 12/02/2020, Lê Thị H đã thực hiện hành vi đánh bài được thua bằng tiền theo hình thức đánh liêng với 06 người liên quan khác tại nhà anh Võ Duy H1, chị Hoàng Thị L. Tổng số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 2.060.000 đồng trong đó Võ Duy H1 sử dụng 500.000 đồng, Trần Phúc S sử dụng 160.000 đồng, Võ Quang C sử dụng 350.000 đồng, Võ Quốc H2 sử dụng 350.000 đồng, Nguyễn Văn T sử dụng 370.000 đồng, Võ Tôn Tr sử dụng 230.000 đồng và Lê Thị H sử dụng 100.000 đồng.

Tuy tổng tang số trên chiếu bạc dưới 5.000.000 đồng nhưng bị cáo có 01 tiền án về hành vi “Đánh bạc”. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, có thể là điều kiện, nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án về tội “Đánh bạc” nhưng tiền án này là yếu tố định tội đối với bị cáo nên không bị xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại tiết thứ nhất điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về hướng xử lý đối với bị cáo: Bị cáo đã từng bị xét xử về hành vi đánh bạc, vừa mới thi hành xong hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST vào ngày 11/02/2020 thì ngay hôm sau lại tiếp tục đánh bạc cho thấy thái độ chấp hành pháp luật kém. Do đó cần phải xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc hơn bản án trước, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, xử phạt bị cáo thấp hơn mức đề nghị của Kiểm sát viên, ở mức khởi điểm là đủ sức răn đe đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo hình phạt bổ sung bằng tiền ở mức khởi điểm là phù hợp.

[3] Xét các hành vi liên quan: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Võ Duy H1, Trần Phúc S, Võ Quang C, Võ Quốc H2, Nguyễn Văn T đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tham gia đánh bạc có tổng trị giá dưới 5.000.000 đồng. Do đó, các đối tượng này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử nhắc nhở những đối tượng này không được tiếp tục vi phạm, nếu không sẽ phải chịu chế tài nghiêm khắc hơn.

Vợ chồng Võ Duy H1, Hoàng Thị L là chủ nhà nhưng không thu lợi, không giúp sức gì cho việc đánh bạc, chị L không có mặt ở nhà, không biết về việc đánh bạc nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

Võ Tôn Tr tuy cùng tham gia đánh bạc nhưng bị bệnh tâm thần phân liệt theo kết luận của Bệnh viện tâm thần Hà Tĩnh và hiện đang điều trị ngoại trú nên không bị xử lý gì là phù hợp. Hội đồng xét xử nhắc nhở Võ Tôn Tr cần phải tập trung chữa bệnh, không tiếp tục vi phạm. Gia đình cũng cần phải có sự quan tâm, quản lý nhiều hơn không để Võ Tôn Tr tiếp tục vi pham.

[4] Về xử lý vật chứng: Xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; tiết thứ nhất điểm s khoản 1 Điều 51, điểm đ khoản 1 Điều 32, Điều 38, khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại giam chấp hành án. Phạt bổ sung đối với bị cáo 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 02 bộ bài tu lơ khơ 52 quân và 01 chiếc chiếu nhựa; Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 2.060.000 đồng (gồm 1.850.000 đồng thu tại chiếu bạc và 210.000 đồng thu trong người Nguyễn Văn T). Tình trạng đặc điểm các vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 19/5/2020 giữa Công an huyện Can Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Can Lộc.

Về án phí: Bị cáo Lê Thị H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện theo pháp luật của ông Võ Tôn Tr vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 33/2020/HS-ST

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về