TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 328/2024/HS-PT NGÀY 12/04/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 12 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 224/2024/TLPT-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo Khúc Thị T và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 350/2023/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận B, H.
* Các bị cáo có kháng cáo, được kháng nghị:
1. KHÚC THỊ T, sinh ngày 06/8/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số X phố N T, Tổ Y, phường T B, quận L B, TP H; nghề N: Lao động tự do: trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khúc Văn T và bà Khúc Thị D (Đều đã chết); có chồng Dương Văn T và 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023, hiện tại ngoại có mặt.
2. PHẠM VĂN H, sinh ngày 06/12/19XX tại T B; ĐKHKTT: Thôn Đ P 1, xã T N, huyện H H, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Tổ X, phường S Đ, quận L B, TP H; nghề N: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Bùi Thị N; có vợ Vũ Thị H và 03, con lớn nhất sinh năm 2016, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023, hiện tại ngoại có mặt.
3. NGUYỄN DOÃN N, sinh ngày 15/3/19XX tại H D; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn P T, xã T Q, huyện T H, tỉnh D; nghề N: Lao động tự do; Là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Doãn K và bà Phạm Thị T có vợ Lê Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023, hiện tại ngoại có mặt.
4. NGUYỄN THỊ T1, sinh ngày 10/01/19XX tại B N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn T T, xã T Q, huyện T T, tỉnh Bắc Ninh; nghề N: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D (Đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có chồng Bùi Xuân L (Đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023, hiện tại ngoại có mặt.
5. NGUYỄN ĐẠI HÙNG C, sinh ngày 26/10/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số nhà X, Tổ Y, phường T B, quận L B, TP H; nghề N: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung T (Đã chết) và bà Bùi Thị B; có vợ Phạm Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án:
- Bản án số 1210/1997/HSST ngày 27/9/1997, TAND thành phố H xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” (Bị cáo chưa nộp án phí);
- Bản án số 493/1998/HSST ngày 10/4/1998, TAND thành phố H xử phạt 12 năm tù về tội “Cướp tài sản” (xét xử hành vi phạm tội ngày 27/11/1997). Bị cáo kháng cáo. Bản án số 2007/1998/HSPT ngày 07/10/1998, TAND Tối cao quyết định sửa bản án sơ thẩm xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp với bản án số 1351/1996/HSST và bản án số 1210/1997/HSST của Tòa án nhân dân thành phố H là 14 năm 06 tháng tù. Ra trại ngày 15/01/2010. Bị cáo chưa nộp án phí.
Tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 1351/1996/HSST ngày 16/12/1996, TAND thành phố H xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” (Nộp án phí ngày 21/8/1998).
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023, hiện tại ngoại có mặt.
6. VŨ THỊ XUÂN Q, sinh ngày 25/6/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số nhà X, Tổ dân phố B M, thị trấn T Q, huyện G L, TP H; nghề N: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân H và bà Võ Thị H; có chồng Lê Minh H và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12h00′ ngày 15/6/2023, tổ công tác Công an phường Thạch Bàn phối hợp cùng Đội cảnh sát hình sự - Công an quận B phát hiện bắt quả tang Khúc Thị T tổ chức cho Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Tá lả” được thua bằng tiền tại nhà của Khúc Thị T ở số X phố N T, tổ Y phường T B, quận L B, H. Thu giữ trên chiếu bạc 200 viên sỏi màu trắng, 04 giỏ nhựa màu đỏ, 01 lọ thủy tinh màu vàng, 02 bộ bài tú lơ khơ mỗi bộ gồm 52 cây bài, số tiền 4.900.000 đồng trên chiếu bạc và 03 điện thoại. Cụ thể của từng đối tượng như sau:
- Thu giữ của Khúc Thị T: 01 lọ thủy tinh màu vàng bên trong có 08 viên sỏi màu trắng; 02 bộ bài tú lơ khơ mỗi bộ gồm 52 cây bài; 01 điện thoại Oppo màu đen.
- Thu giữ của Phạm Văn H: 46 viên sỏi màu trắng; 01 giỏ nhựa màu đỏ; 01 điện thoại Iphone XS max màu vàng và số tiền 650.000 đồng.
- Thu giữ của Nguyễn Doãn N: 56 viên sỏi màu trắng; 01 giỏ nhựa màu đỏ; 01 điện thoại Iphone 6 plus màu bạc và số tiền 50.000 đồng.
- Thu giữ của Nguyễn Thị T1: 52 viên sỏi màu trắng; 01 giỏ nhựa màu đỏ.
- Thu giữ của Nguyễn Đại Hùng C: 38 viên sỏi màu trắng; 01 giỏ nhựa màu đỏ và số tiền 4.200.000 đồng.
Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở công an phường Thạch Bàn để làm rõ.
Quá trình điều tra xác định:
Sáng ngày 15/6/2023, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Vũ Thị Xuân Q, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C đến nhà Khúc Thị T tại số X phố N T để chơi thì được T rủ đánh bạc tại nhà T. T chuẩn bị 02 bộ bài, 200 viên sỏi đựng trong 04 giỏ nhựa (mỗi giỏ nhựa 50 viên sỏi) phục vụ việc đánh bạc, quy ước mỗi viên sỏi là 50.000 đồng. T đưa cho mỗi người một giỏ nhựa chứa 50 viên sỏi tương đương 2.500.000 đồng để thuận tiện cho việc thanh toán thắng thua khi đánh bạc. Sau khi xong, người chơi sẽ thanh toán thắng thua với T bằng tiền mặt theo số lượng viên sỏi còn lại. Khoảng hơn 10h00’ cùng ngày, H, Q, T1, C bắt đầu đánh bạc. Sau khi chơi một lúc, do Q bị thua nhiều và N có chơi thay vị trí của Q. Q và N thỏa thuận sẽ chia đôi tiền đánh bạc sau khi thanh toán với T. Sau khi để N chơi được một lúc thì Q đi ra ngoài giải quyết việc cá nhân.
Khi tham gia đánh bạc, H, N, Q, T1, C sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ để đánh bài tá lả với cách thức quy ước như sau: một người chia bộ bài cho 03 người còn lại mỗi người 09 cây bài, người chia được 10 cây bài và đánh đầu tiên. Sau đó, theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, người chơi T theo đánh bài đến khi hết bài thì hạ phỏm và tính tổng số điểm số bài còn lại, ai thấp nhất thì thắng thu tiền của người về thứ hai 50.000 đồng (bằng 01 viên sỏi), người về thứ ba 100.000 đồng (bằng 02 viên sỏi), người về thứ tư 150.000 đồng (bằng 03 viên sỏi); hoặc có người “ù” thì thu của những người còn lại mỗi người 300.000 đồng (bằng 06 viên sỏi); người nào “móm” (không có phỏm) thì phải trả 200.000 đồng (bằng 04 viên sỏi). Người nào “ù” thì bỏ ra 01 viên sỏi tương đương 50.000 đồng vào 01 chiếc lọ thủy tinh màu vàng là tiền gà để trả cho T hưởng lợi. Ai thắng thì sẽ chia bài cho ván T theo.
Đến khoảng 12h00’ cùng ngày, H, N, T1, C đang đánh bạc thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang. Tại thời điểm bắt quả tang, T, H, N, T1, C có mặt tại chiếu bạc còn Q đã rời khỏi xới bạc từ trước. Khi đó H còn lại 46 viên sỏi tức đang thua 200.000 đồng; C còn lại 38 viên sỏi tức đang thua 600.000 đồng; N có 56 viên sỏi tức đang lãi 300.000 đồng; T1 có 52 viên sỏi tức đang lãi 100.000 đồng; T có 08 viên sỏi là tiền gà tương đương 400.000 đồng. Khi tham gia đánh bạc, H mang theo 650.000 đồng, N mang theo 50.000 đồng, C mang theo 1.800.000 đồng để thanh toán thắng thua sau khi đánh bạc xong còn T1 không mang theo tiền và sẽ thanh toán với T sau. Quá trình bắt quả tang do bị xô lệch nên số tiền trên xới bị lẫn vào chỗ ngồi của C, số tiền khi bị bắt giữ tại vị trí của C là 4.200.000 đồng. Số tiền 2.400.000 đồng còn dư C khai không phải của C và các bị cáo H, N, T1, Q, T không nhận đây là tiền của mình.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 350/2023/HSST ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận B đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C, Vũ Thị Xuân Q phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
+ Bị cáo Khúc Thị T 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023.
+ Bị cáo Nguyễn Thị T1 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023.
+ Bị cáo Vũ Thị Xuân Q 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
+ Bị cáo Phạm Văn H 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023.
+ Bị cáo Nguyễn Doãn N 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tỉnh từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đại Hùng C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023.
- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân quận B có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 02/QĐ-VKS-LB ngày 10/01/2024 đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng cải treo cho các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Vũ Thị Xuân Q như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B tại phiên tòa sơ thẩm.
- Ngày 04/01/2024 các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Thị T1, Vũ Thị Xuân Q có đơn kháng cáo và ngày 08/01/2024 các bị cáo Khúc Thị T, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Đại Hùng C có đơn kháng cáo. Các bị cáo đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C và Vũ Thị Xuân Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo đều giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Vũ Thị Xuân Q con còn nhỏ; bị cáo Nguyễn Doãn N bố mẹ già yếu bệnh tật, con còn nhỏ; bị cáo Nguyễn Thị T1 mẹ già, con còn nhỏ, bị cáo là mẹ đơn thân; bị cáo Nguyễn Đại Hùng C án sơ thẩm xử nặng, sau khi ra trại về bị cáo không phạm tội, gia đình bị cáo có công với cách mạng, mẹ già, con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, nhân thân của các bị cáo, xem xét kháng cáo của các bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm:
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại Hùng C và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1 và Vũ Thị Xuân Q, sửa một phần bản án sơ thẩm: Giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho các bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách gấp đôi.
- Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B và đơn kháng cáo của các bị cáo đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Tại phiên tòa các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C và Vũ Thị Xuân Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12h00′ ngày 15/6/2023, tại nhà số X phố N T, tổ Y phường T B, quận L B, TP H, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C, Vũ Thị Xuân Q, Khúc Thị T thực hiện hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh “Tá lả” với tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 10.000.000 đồng.
Bị cáo Nguyễn Đại Hùng C nhân thân đã tái phạm chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Hành vi nêu trên của bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Vũ Thị Xuân Q đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình và bị cáo Nguyễn Đại Hùng C bị xét xử về tội “Đánh bạc” theo điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Đại Hùng C, Vũ Thị Xuân Q và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, vai trò của từng bị cáo trong vụ án, nhân thân của các bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như: Các bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Vũ Thị Xuân Q, Nguyễn Thị T1 tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Nguyễn Đại Hùng C tại cơ quan điều tra và tại phiên thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố và mẹ của bị cáo được tặng Huy chương chiến sỹ giải phóng, bố được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, mẹ là Thương binh; Bị cáo Phạm Văn H có bố là Thương binh hạng; Bị cáo Nguyễn Doãn N có có bố bị nhiễm chất độc màu Da cam, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba và Huân chương chiến sĩ vẻ vang nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đã quyết định mức hình phạt 16 tháng tù đối với bị cáo Khúc Thị T; 10 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Thị T1, Vũ Thị Xuân Q, Phạm Văn H và Nguyễn Doãn N cùng về tội “Đánh bạc” là phù hợp. Tuy nhiên buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam là không cần thiết, bởi lẽ: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn; có nhiều tình tiết giảm nhẹ; các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ già, con còn nhỏ và có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Khúc Thị T, Phạm Văn H, Nguyễn Doãn N, Nguyễn Thị T1, Vũ Thị Xuân Q và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận B, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội mà cũng không gây nguy hại cho xã hội.
Đối với bị cáo Nguyễn Đại Hùng C có số tiền bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn; bản thân có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già, con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình; gia đình có bố, mẹ là người có công với cách mạng; bị cáo cũng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự song Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 36 tháng tù về tội “Đánh bạc” là còn quá nghiêm khắc. Do vậy nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại Hùng C, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo được yên tâm cải tạo sớm được trở về hòa nhập với gia đình và xã hội.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị T tục có hiệu lực pháp luật.
[5] Các bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17;
Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
+ Bị cáo Khúc Thị T 16 (Mười sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 32 (Ba mươi hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/4/2024 về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Khúc Thị T cho UBND phường T B, quận L B, TP H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Bị cáo Nguyễn Thị T1 10 (Mười) tháng tù, cho hưởng án treo;
thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/4/2024 về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Nguyễn Thị T1 cho UBND xã T Q, huyện T T, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Bị cáo Vũ Thị Xuân Q 10 (Mười) tháng tù, cho hưởng án treo;
thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/4/2024 về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Vũ Thị Xuân Q cho UBND thị trấn T Q, huyện G L, TP H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
+ Bị cáo Phạm Văn H 10 (Mười) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/4/2024 về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Phạm Văn H cho UBND phường S Đ, quận L B, TP H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
+ Bị cáo Nguyễn Doãn N 10 (Mười) tháng tù, cho hưởng án treo;
thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 12/4/2024 về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Nguyễn Doãn N cho UBND xã T Q, huyện T H, tỉnh D giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đại Hùng C 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/6/2023 đến ngày 22/6/2023) về tội “Đánh bạc”.
2. Về án phí:
Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 328/2024/HS-PT
Số hiệu: | 328/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về