TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 29/2022/HS-PT NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 07/2022/TLPT- HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo Nguyễn Điền N và Trần Ngọc T, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 29/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, thành phố Cần Thơ.
Các bị cáo có kháng cáo:
1/ Nguyễn Điền N; sinh năm 1981. Nơi cư trú: Ấp TP2, xã TH, huyện CĐ, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Giáo viên; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Bá P (chết) và bà Lê Thị H; Vợ Phan Thị Minh M, sinh năm 1979; Có 03 con lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
2/ Trần Ngọc T; sinh năm 1987. Nơi cư trú: Ấp TP1, xã TH, huyện CĐ, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc Đ và bà Huỳnh Thị P1; Có 01 anh sinh năm 1986 và 02 em sinh năm 1988 và 1991; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc T: Luật sư Lê Văn C1 – Văn phòng luật sư Hà Vi C - Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Điền N: Luật sư Lê Kim B – Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ 50 phút, ngày 12/7/2021 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an huyện CĐ tiến hành khám xét khẩn cấp người và phương tiện đối với Trần Ngọc T cư ngụ tại Ấp TP2, xã TH, huyện CĐ, thành phố Cần Thơ.
Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại Iphone 6 plus màu xám, sử dụng sim số 0962639425, tiền Việt Nam 30.900.000đồng. Trong đó, thu trên người T 10.500.000đồng, thu trong cốp xe mô tô biển số 65K1-074.83 số tiền 20.400.000đồng.
Quá trình điều tra xác định, vào khoảng 19 giờ 46 phút, ngày 11/7/2021, Nguyễn Điền N dùng điện thoại di động Iphone X, sử dụng sim số 0907662246 nhắn tin qua số điện thoại 0962639425 của T để ra tỷ lệ thắng thua bóng đá giữa đội tuyển Anh và Ý trong giải vô địch bóng đá Châu Âu Euro 2020 diễn ra lúc 02 giờ ngày 12/7/2021. Trong trận đá này, Anh đá đồng với Ý, tỷ lệ thắng thua như sau: Nếu bắt đội Anh mà thắng thì người chơi hưởng 75% số tiền cá cược, còn thua thì thua 100% số tiền cá cược. Nếu bắt đội Ý mà thắng thì người chơi hưởng 85% số tiền cá cược, còn thua thì thua 100% số tiền cá cược. Đối với cá cược tài - xỉu nếu trên 01 trái là tài, 01 trái trở xuống là xỉu. Tỷ lệ cá cược, nếu 1,75 trái đến 02 trái thì tài thắng 50% số tiền cá cược, còn thua thì thua 100% số tiền cá cược, từ 03 trái trở lên thì tài thắng 75% số tiền cá cược, nếu thua thì thua 100% số tiền cá cược.
Khoảng 01 giờ 38 phút, ngày 12/7/2021, T nhắn tin cho N tham gia cá tài - xỉu, bắt tài với số tiền 10.000.000 đồng. Bị cáo N đồng ý thể hiện qua tin nhắn “OK”. Ngoài ra, T còn nhắn tin qua số điện thoại 0917109585 cho người có tên thể hiện trên tin nhắn là Hí tham gia trận đấu giữa đội Anh và Ý, bị cáo T bắt đội Ý với số tiền tham gia 10.000.000 đồng.
Ngoài lần cá cược trên thì ngày 08/7/2021 cả N và T còn tham gia trận đấu giữa đội tuyển Anh và Đan Mạch, số tiền cá cược 10.000.000 đồng. Trong đó, T bắt đội Đan Mạch số tiền 5.000.000 đồng, cá cược tài, xỉu, bắt tài số tiền 5.000.000 đồng, kết quả trong trận này T thắng được 4.500.000 đồng.
Qua xác minh, chủ thuê bao số điện thoại 0917109585 là Nguyễn Thanh V1, nơi cư trú xã TH1, huyện CĐ, thành phố Cần Thơ hiện tại không có mặt ở địa phương nên Cơ quan điều tra Công an huyện CĐ chưa tiến hành làm việc được nên chưa có cơ sở xứ lý.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 29/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện CĐ, thành phố Cần Thơ đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Điền N và Trần Ngọc T phạm tội “Đánh bạc”. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Điền N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Về hình phạt bổ sung: Buộc bị cáo Nguyễn Điền N phải nộp 10.000.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc T phải nộp 10.000.000 đồng, sung vào công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 10/12/2021, bị cáo N có đơn kháng cáo xin hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung; bị cáo T kháng cáo xin án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo N xin hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung với lý do lần đầu phạm tội, chấp hành tốt chính sách, pháp luật địa phương, gia đình khó khăn, bị cáo đang lao động chính, đang chăm sóc mẹ già và 03 con nhỏ; bị cáo T xin án treo và miễn hình phạt bổ sung với lý do lần đầu phạm tội, học vấn thấp, gia đình khó khăn, bị cáo đang lao động chính, đang chăm sóc cha, mẹ già.
Luật sư bào chữa cho bị cáo N phát biểu: Thống nhất với tội danh và mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo. Tuy nhiên, tuy nhiên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội có thời hạn là nghiêm khắc. Hành vi đánh bạc ngày 08/7/2021 của bị cáo tự nguyện khai nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ là tự thú theo điểm r Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo. Đối với kháng cáo yêu cầu miễn hình phạt bổ sung, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo để quyết định.
Luật sư bào chữa cho bị cáo T phát biểu: Bị cáo T thật thà khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện nộp tiền thu lợi bất chính. Bị cáo T có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có hạn chế. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự nên đề nghị chấp nhận cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện cho bị cáo lao động tạo ra thu nhập để nuôi cha mẹ già.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên toà nhận định: Bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, cấp sơ thẩm đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Hành vi phạm tội các bị cáo bị phát hiện do kiểm tra tin nhắn điện thoại không phải do bị cáo tự nguyện khai báo, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định nên công nhận hợp lệ.
[2] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định: Nguyễn Điền N và Trần Ngoc T đã có hành vi sử dụng điện thoại và sim số do các bị cáo đang trực tiếp quản lý, sử dụng để nhắn tin cá cược thắng thua bằng tiền trên cơ sở kết quả của các trận bóng đá trong giải vô địch bóng đá Châu Âu Euro 2020. Số tiền mỗi lần các bị cáo tham gia đánh bạc đều đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể trận đấu giữa đội tuyển Anh và Ý lúc 02 giờ ngày 12/7/2021, số tiền các bị cáo cá cược là 10.000.000 đồng; trận đấu giữa đội tuyển Anh và Đan Mạch ngày 08/7/2021 các bị cáo cá cược là 10.000.000 đồng theo cách thức cá cược tài – xỉu. Ngoài ra, T còn nhắn tin qua số điện thoại 0917109585 cho người có tên thể hiện là Hí tham gia trận đấu giữa đội Anh và Ý, T bắt đội Ý với số tiền tham gia 10.000.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo:
Bị cáo N kháng cáo xin được hưởng án treo và miễn tiền phạt bổ sung; bị cáo T kháng cáo xin án treo với các lý do nêu trên. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng và gây ra các hệ lụy cuộc sống cho nhiều gia đình. Các bị cáo đều đã trưởng thành, biết rõ việc đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền là trái pháp luật và cũng đủ khả năng nhận thức được tác hại của hành vi này đối với gia đình và xã hội nhưng chỉ vì lòng tham muốn hưởng lợi mà không bỏ sức lao động nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Với số tiền mỗi lần các bị cáo dùng để đánh bạc và số lần các bị cáo tham gia đánh bạc như đã phân tích trên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp.
[3.2] Tại phiên tòa luật sư bào chữa cho bị cáo N đề nghị áp dụng thêm cho bị cáo N tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự thú theo điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự do bị cáo đã tự khai báo hành vi đánh bạc ngày 08/7/2021 là không có cơ sở để chấp nhận bởi lẽ hành vi đánh bạc bị cáo thực hiện ngày 08/7/2021 không phải do bị cáo tự khai nhận mà được phát hiện qua việc kiểm tra điện thoại của bị cáo (BL 45).
[3.3] Như đã phân tích các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc với mục đích hưởng lợi bất chính nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ. Với mức độ thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo cấp sơ thẩm cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội với thời hạn như đã tuyên trong Bản án sơ thẩm là tương xứng. Mặc dù các bị cáo được địa phương xác nhận là lao động chính trong gia đình nhưng do các bị cáo phạm tội nhiều lần nên không thỏa mãn điều kiện về nhân thân tốt theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo nên thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên, giữ y Bản án sơ thẩm [4] Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xác định vụ án có đồng phạm là chưa đúng bởi lẽ bị cáo N gởi kèo các trận đấu qua tin nhắn cho bị cáo T, nếu T đồng ý thì xác nhận OK cho thấy hai bị cáo tham gia sát phạt thắng thua với nhau bằng tiền qua các trận đấu, nên vụ án không có đồng phạm. Cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Điền N và Trần Ngọc T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm (có điều chỉnh điều luật).
2. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Điền N và Trần Ngọc T phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Điền N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Về hình phạt bổ sung: Buộc bị cáo Nguyễn Điền N phải nộp 10.000.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc T phải nộp 10.000.000 đồng để sung vào công quỹ Nhà nước.
3. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 29/2022/HS-PT
Số hiệu: | 29/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về