Bản án về tội đánh bạc số 25/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN thành PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2024/TLST-HS ngày 08/01/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2024/QĐXXST-HS ngày 15/01/2024 đối với các bị cáo:

1. Phạm Thị H; sinh ngày: 06/7/1981, tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn An Dân, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: tổ 17, khu 2, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị D; có chồng là Nguyễn Thế A và có 03 con, con lớn sinh năm 1999 và con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: ngày 23/9/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 18 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (đã xoá án tích); ngày 05/10/2021, bị Công an thành phố Hạ Long xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, (đã nộp phạt ngày 05/10/2021); bị bắt ngày 06/7/2023, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Vũ Thị A; sinh ngày: 13/11/1975, tại Quảng Ninh; nơi cư trú: tổ 2, khu 1A, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Tài T và bà Phạm Thị O; có chồng là Đỗ Văn V và có 02 con, con lớn sinh năm 1996 và con nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: ngày 15/12/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội: “Đánh bạc” (đã xóa án tích); bị bắt ngày 06/7/2023, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

3. Phạm Thị L; sinh ngày: 20/8/1970, tại Thuỷ Nguyên, Hải Phòng; nơi cư trú: tổ 4, khu 1, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: tổ 3, khu 3, phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Khắc S (đã chết) và bà Phạm Thị T; có chồng là Đinh Công H và có 02 con, con lớn sinh năm 1990 và con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: chưa; bị bắt ngày 06/7/2023, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

4. Nguyễn Thị D; sinh ngày: 10/5/1976, tại Thuận thành, Bắc Ninh; nơi cư trú: tổ 7, khu 6, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn ThA D và bà Nguyễn Thị T; có chồng là Đỗ Văn P và có 02 con, con lớn sinh năm 2001 và con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: chưa; bị bắt ngày 06/7/2023, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

* Người làm chứng:

- Chị Lê Thị O, sinh năm: 1988; vắng mặt.

- Chị Đoàn Thị H, sinh năm: 1969; vắng mặt.

- Chị Đào Thị C, sinh năm: 1964; vắng mặt.

* Người chứng kiến: A Triệu Đức N; sinh năm: 1985; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng từ 11 giờ đến 14 giờ ngày 06/07/2023, Phạm Thị L, Vũ Thị A, Phạm Thị H và Nguyễn Thị D biết tin tại khu vực Đèo Hạ My, thuộc thôn Bằng A, xã Tân Dân, thành phố Hạ Long có người đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa, nên đã lần lượt đi đến để tham gia đánh bạc. Khi đến bìa rừng khu vực Đèo Hạ My, có đường mòn rẽ vào rừng, L và A gặp người đàn ông tên S “Nhị” và đi theo hướng dẫn của S để vào sới bạc. Từ phía ngoài bìa rừng đi theo đường mòn vào trong khoảng 300 mét, L, A, H và D thấy có khoảng 07 đến 08 người cả nam và nữ (không quen biết, không rõ lai lịch, địa chỉ) đang ngồi xung quA tấm vải bạt màu trắng trải trên nền đất để đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa”. Người đàn ông tên “B” (chưa rõ lai lịch) là người cầm cái xóc đĩa cho mọi người chơi và trả tiền cho người thắng và thu tiền cược của người thua ở cửa “chẵn”; người đàn ông tên Lâm “Sung” (chưa rõ lai lịch) là người trả tiền cho người thắng và thu tiền cược của người thua ở cửa “lẻ”; người đàn ông tên “Tuấn Cận” (chưa rõ lai lịch) là người thu tiền “hồ” của người tham gia chơi bạc, số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng/người. Để tham gia đánh bạc, H đã nộp 200.000 đồng tiền “hồ” cho Tuấn “Cận”, còn A, L, D chưa nộp. Sau khi đứng xem một lúc, thì Phạm Thị L, Vũ Thị A, Phạm Thị H, Nguyễn Thị D cùng tham gia chơi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa”.

Cách thức chơi như sau: người cầm cái sử dụng 01 bộ bát, đĩa và 04 quân vị, được cắt từ quân bài tú lơ khơ thành hình tròn, hai mặt khác nhau. Khi bắt đầu chơi, người cầm cái để 4 quân vị vào trong đĩa, úp bát lại và bắt đầu xóc. Sau khi xóc xong thì những người tham gia chơi bắt đầu đặt cược tiền theo cửa chẵn hoặc cửa lẻ, mức cược từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Sau khi tất cả những người chơi đã đặt cược tiền thì người cầm cái mở bát ra xem kết quả. Chẵn gồm các trường hợp: 02 quân vị mặt trắng + 02 quân vị mặt xA; 04 quân vị mặt trắng; 04 quân vị mặt xA. Lẻ gồm các trường hợp: 01 quân vị mặt trắng + 03 quân vị mặt xA; 03 quân vị mặt trắng + 01 quân vị mặt xA. Người nào đặt đúng cửa thì được số tiền bằng số tiền đã đặt cược, ngược lại thì thua số tiền đã đặt cược. Người cầm cái trả tiền cho người được và thu tiền cược của người thua.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Đội cảnh sát hình sự Công an thành phố Hạ Long phối hợp với Công an xã Tân Dân, thành phố Hạ Long phát hiện và bắt quả tang Vũ Thị A, Nguyễn Thị D, Phạm Thị L, Phạm Thị H đang đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa”, còn các đối tượng S “Nhị”, Tuấn “Cận”, Lâm “Xung”, B và những người khác chơi bạc khác đã bỏ chạy thoát. Cơ quan Công an thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 32.800.000 đồng (ba mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng), 01 (một) chiếc đĩa sứ, 01 (một) chiếc bát sứ, 04 (bốn) quân vị, 01 (một) tấm bạt, kích thước (1,4x0,57) mét, một mặt chữ hồng, một mặt màu trắng; 12 (mười hai) chiếc ghế nhựa có cùng kích thước (20,5x20,5x14,5)cm (gồm 03 ghế nhiều lỗ; 07 ghế 25 lỗ và 02 ghế không lỗ), 01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola, 02 (hai) chiếc dập quân vị màu cam.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: hiện trường vụ án xảy ra tại thôn Bằng A, xã Tân Dân, thành phố Hạ Long. Phía Bắc là rừng và sườn đồi dốc lên, phía Nam là rừng và sườn đồi dốc xuống. Phía Đông hướng ra đèo Hạ My. Phía Tây là lối đi vào trong rừng. Đường đi vào trong rừng là đường mòn, bề mặt gồ ghề, rộng 0,7 mét. Vị trí các đối tượng đánh bạc là khoảnh đất trống kích thước (6,5x0,4) mét. Vị trí bát và đĩa sứ đựng 04 quân vị có tọa độ 21011’4’’B, 106050’47” Đ, được đặt trên bạt. Vị trí Vũ Thị A ngồi phía Đông Nam của bạt; vị trí Nguyễn Thị D và Phạm Thị H ngồi ở góc Đông Bắc của bạt; vị trí Phạm Thị L ngồi ở khu vực góc Tây Bắc của bạt.

* Cụ thể các bị cáo khai:

Phạm Thị H khai: khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/7/2023, H gọi điện thoại cho B (quen biết xã hội, số điện thoại 0917.274.176) thì được biết tại khu vực Đèo Hạ My có đánh bạc. Sau đó, H gọi cho D rủ đi đánh bạc thì D đồng ý nên cả hai cùng đi đến khu vực Cảng Cái Lân gặp B, B dùng xe ô tô (không rõ biển kiểm soát) chở H, D đến địa điểm đánh bạc. Tại đây, H nhìn thấy S “Nhị” bỏ 01 bộ bát đĩa từ trong người ra để cho mọi người sử dụng để đánh bạc. H mang theo 800.000 đồng, đóng tiền hồ 200.000 đồng, còn 600.000 đồng sử dụng đánh bạc và thua hết. Ngày 07/7/2023, H tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung Galaxy A23 đã sử dụng liên lạc với B.

Vũ Thị A khai: khoảng 12 giờ 30 phút ngày 06/7/2023, A gọi điện cho người phụ nữ tên H (quen biết xã hội, không nhớ số điện thoại) thì được biết tại khu vực Đèo Hạ My có đánh bạc nên A tìm đến để bán nước cho người chơi. Tại đây, A nhìn thấy S “Nhị” (quen biết xã hội) đang cầm 01 bộ đàm màu đen rồi hướng dẫn lối đi cho A vào địa điểm đánh bạc. Sau khi bán được 01 chai nước cho L với giá 50.000 đồng thì A đã sử dụng số tiền này để đánh bạc và bị thua hết. Về chiếc điện thoại A sử dụng liên lạc với H, quá trình bắt quả tang, A bỏ chạy nên bị rơi không rõ ở đâu.

Phạm Thị L khai: L có mối quan hệ quen biết xã hội với S “Nhị”. Khoảng 11 giờ ngày 06/7/2023, S gọi điện vào số điện thoại 0972.622.568 của L, rủ đi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa” tại khu vực đồi Đèo Hạ My. Sau đó, L từ nH tại phường Yết Kiêu, mang theo số tiền 600.000 đồng, một mình đi taxi đến địa điểm trên, gặp S thì được S trả tiền taxi, rồi S nhờ L bê chồng ghế nhựa vào khu vực đánh bạc, L đồng ý. Sau khi L bê chồng ghế và đi theo S đến khu vực đánh bạc thì S cho L 400.000 đồng. Lúc này, L có tổng số tiền là 1.000.000 đồng. L đặt cược đánh bạc 03 ván, mỗi ván 50.000 đồng đều thua. Sau đó L mua của Vũ Thị A 01 chai nước với giá 50.000 đồng, còn 800.000 đồng L cất vào trong người không sử dụng đánh bạc. Ngày 07/7/2023, L đã tự nguyện giao nộp số tiền này cho Cơ quan điều tra. Về chiếc điện thoại sử dụng để liên lạc với S, quá trình bắt quả tang, L bỏ chạy bị rơi không rõ ở đâu.

Nguyễn Thị D khai: D được H rủ đi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa” cùng với người đàn ông tên “B”. Khi đến địa điểm đánh bạc, D không quen biết ai trong số người chơi. D mang theo 500.000 đồng, đặt cược 02 ván, mỗi ván 100.000 đồng đều thua, còn 300.000 đồng thì D cất vào trong người không sử dụng đánh bạc. Ngày 07/7/2023, D tự nguyện giao nộp số tiền 300.000 đồng cho Cơ quan điều tra.

Các bị cáo đều khai nhận quá trình chơi đánh bạc thì sới bạc trên diễn ra liên tục, không bị ngắt quãng, chỉ có một mình B xóc đĩa cho mọi người chơi. Về lai lịch, địa chỉ của S “Nhị”, B, Tuấn “Cận”, Lâm “Xung” thì L, A, H và D đều không biết.

* Những người làm chứng khai:

Chị Lê Thị O: khoảng 15 giờ ngày 06/7/2023, A Tuấn gọi điện rủ chị vào khu vực Đèo Hạ My để đánh bạc. Khi chị vào đến nơi thấy có khoảng hơn 10 người đánh bạc dưới hình thức “xóc đĩa”. Trong số người này chị chỉ quen A S, A Tuấn. Chị ngồi xem mọi người chơi đến khoảng 18 giờ 30 phút thì công an đến kiểm tra, bắt quả tang. Lúc này A S, A Tuấn và một số người khác bỏ chạy, còn chị và một số người bị giữ lại đưa về trụ sở Công an làm việc. Về lai lịch, địa chỉ của A S và A Tuấn chị không biết.

Chị Đào Thị C: khoảng 14 giờ ngày 06/7/2023, chị và chị Đoàn Thị H đón xe đi đến đèo Hạ My để tìm Mạnh (con nhận chị). Vì chị biết khu vực này có một nhóm người đánh bạc nên đến đó để tìm. Khi đến nơi, chị không tham gia đánh bạc, không biết ai là người tổ chức, mà chỉ đứng xem.

Chị Đoàn Thị H: khoảng 14 giờ ngày 06/7/2023, chị và chị Đào Thị C đi tìm người mượn xe máy của chị C. Khi đến khu vực Đèo Hạ My, xã Tân Dân, chị thấy 4 có một nhóm người cả nam và nữ đang ngồi đánh bạc dưới hình thức “xóc đĩa”. Chị và chị C đứng xem, không tham gia đánh bạc. Đến khoảng 18 giờ 30 phút có lực lượng công an đến kiểm tra, bắt quả tang. Một số người bỏ chạy, một số người bị giữ lại.

Người chứng kiến A Triệu Đức N: khoảng 18 giờ 40 phút ngày 06/7/2023, A được cơ quan công an mời đến khu vực Đèo Hạ My chứng kiến việc bắt quả tang 04 người có hành vi đánh bạc. Những người này khai tên là Phạm Thị H, Nguyễn Thị D, Phạm Thị L và Vũ Thị A. Cơ quan công an thu giữ trên chiếu bạc số tiền là 32.800.000 đồng, 01 chiếc đĩa sứ, 01 chiếc bát sứ, 04 quân vị, 01 tấm bạt, 12 chiếc ghế nhựa, 01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola, 02 chiếc dập quân vị màu cam.

Bản Cáo trạng số 05/CT-VKS- HL ngày 05/01/2024, Viện kiểm sát nhân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh truy tố các bị cáo Phạm Thị H, Vũ Thị A, Phạm Thị L và Nguyễn Thị D về tội “đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 (bị cáo L áp dụng thêm điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51; bị cáo D áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51), Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Thị H từ 09 đến 12 tháng tù; bị cáo Vũ Thị A, Phạm Thị L và Nguyễn Thị D mỗi bị cáo từ 07 đến 09 tháng tù, đều về tội: “Đánh bạc”.

* Về hình phạt bổ sung: các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

* Về xử lý vật chứng: căn cứ khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu sung ngân sách NH nước số tiền 32.800.000đ (ba mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung (kiểu dáng Samsung Galaxy A23) màu cam.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc đĩa sứ; 01 (một) chiếc bát sứ, 04 (bốn) quân vị;

01 (một) tấm bạt; 12 (mười hai) chiếc ghế nhựa; 01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola; 02 (hai) chiếc dập quân vị màu cam và 01 (một) sim điện thoại.

Trả lại Phạm Thị L số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) và Nguyễn Thị D số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Các bị cáo không trA luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Nói lời sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Thị L, Vũ Thị A, Phạm Thị H và Nguyễn Thị D đều khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của những người làm chứng; Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06/7/2023; Kết quả khám nghiệm hiện trường cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06/7/2023, tại khu vực đồi Đèo Hạ My, thuộc thôn Bằng A, xã Tân Dân, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Thị H, Vũ Thị A, Phạm Thị L, Nguyễn Thị D đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền, dưới hình thức “xóc đĩa” với một số đối tượng không rõ nhân thân lai lịch, thì bị Tổ công tác Công an thành phố Hạ Long phát hiện, bắt quả tang thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 32.800.000đ (ba mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng); 01 (một) chiếc đĩa sứ, 01 (một) chiếc bát sứ, 04 (bốn) quân vị; 01 (một) tấm bạt; 12 (mười hai) chiếc ghế nhựa;

01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola; 02 (hai) chiếc dập quân vị.

hành vi của các bị cáo đã phạm tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] hành vi các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn công cộng. Các bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì lười lao động và hám lợi nên vẫn thực hiện. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: các bị báo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo L và D phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo L có bố mẹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì và hạng ba, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về vai trò và mức hình phạt: đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo H tham gia đánh bạc với số tiền nhiều nhất, có nhân thân xấu nên mức hình phạt cao nhất. Bị cáo A mặc dù tham gia đánh bạc với số tiền ít nhất, nhưng có nhân thân xấu, đã bị xét xử về tội “đánh bạc” nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm cùng một loại tội, nên có mức hình phạt sau bị cáo H. Tiếp theo là bị cáo L và D đều có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ nên có mức hình phạt thấp nhất và ngang nhau.

6 [6] Về xử lý vật chứng:

Về số tiền thu giữ: Cơ quan điều tra thu giữ trên chiếu bạc số tiền 32.800.000đ, cần tịch thu sung ngân sách NH nước. Bị cáo L nộp 800.000 đồng, bị cáo D nộp 300.000 đồng. Các bị cáo đều khai không sử dụng số tiền này để đánh bạc nên trả lại cho các bị cáo.

Về điện thoại: điện thoại nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A23 thu giữ của bị cáo H. Bị cáo dùng điện thoại liên lạc đi đánh bạc, cần tịch thu sung ngân sách NH nước.

Các vật chứng còn lại là: 01 (một) chiếc đĩa sứ, 01 (một) chiếc bát sứ, 04 (bốn) quân vị; 01 (một) tấm bạt; 12 (mười hai) chiếc ghế nhựa; 01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola; 02 (hai) chiếc dập quân vị và sim điện thoại cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung: các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[8] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với các đối tượng S “Nhị”, Lâm “Xung”, Tuấn “Cận”, B, ngày 14/12/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long đã ban hành Quyết định số 03/QĐ-CQCSĐT(CSHS) tách hành vi liên quan trong vụ án hình sự để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với Lê Thị O, Đào Thị C và Đoàn Thị H đến xem không tham gia đánh bạc nên không đề cập xử lý. Đối với những người tham gia đánh bạc khác cùng H, A, L, D, đã bỏ chạy thoát trong khi bắt quả tang, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, điều luật và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị H, Vũ Thị A, Phạm Thị L và Nguyễn Thị D phạm tội: “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

xử phạt Phạm Thị H 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị bắt 06/7/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

xử phạt Vũ Thị A 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị bắt 06/7/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: xử phạt Phạm Thị L 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị bắt 06/7/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: xử phạt Nguyễn Thị D 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị bắt 06/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu sung ngân sách NH nước số tiền 32.800.000đ (ba mươi hai triệu tám trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung (kiểu dáng Samsung Galaxy A23) màu cam.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc đĩa sứ; 01 (một) chiếc bát sứ; 04 (bốn) quân vị;

01 (một) tấm bạt; 12 (mười hai) chiếc ghế nhựa; 01 bộ đàm nhãn hiệu Motorola; 02 (hai) chiếc dập quân vị màu cam và 01 (một) sim điện thoại.

Trả lại Phạm Thị L số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) và Nguyễn Thị D số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

(các khoản tiền theo phiếu nhập kho ngày 13/9/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hạ Long và Kho bạc NH nước Quảng Ninh; các vật chứng còn lại theo Biên bản giao nhận vật chứng số 94/BB-THA ngày 11 tháng 01 năm 2024 giữa Công an thành phố Hạ Long và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long).

4. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: các bị cáo Phạm Thị H, Vũ Thị A, Phạm Thị L và Nguyễn Thị D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về