Bản án về tội đánh bạc số 22/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 22/2022/HSST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 5 năm 2022 Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2022/TLST- HS ngày 18/3/2022. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 và thông báo mở lại phiên tòa số: 09/2022/TB - HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo.

1. Họ và tên: Đinh Minh T - Sinh ngày 28/3/1992, tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang Nơi ĐKHKTT+ Chỗ ở hiện nay: Khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 12/12. Con ông: Đinh Văn T - SN 1967. Con bà: Nông Thị H - SN 1970.

Anh chị em ruột: Có 02 anh em, nhỏ nhất đã chết, bị cáo là con lớn nhất. Vợ: Đinh Thị H - Sinh năm 1986.

Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016.

Hiện nay bố, mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

2. Họ và tên: Quyền Đình L - Sinh ngày 04/5/1982, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT

+ Chỗ ở hiện nay: Khu T, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 4/12.

Con ông: Quyền Đình M (Đã chết). Con bà: Nguyễn Thị C - SN 1947. Anh chị em ruột: Có 03 anh, em, lớn nhất, sinh năm 1978, bị cáo là con nhỏ nhất Vợ: Đỗ Thu H - Sinh năm 1983 Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Hiện nay mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

3. Họ và tên: Trần Văn D - Sinh ngày 22/10/1981, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT

+ Chỗ ở hiện nay: phố Hạ Sơn, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 12/12. Con ông: Trần Văn Dũng - SN 1957. Con bà: Nguyễn Thị Dòn - SN 1961.

Anh chị em ruột: Có 03 anh, em, nhỏ nhất, sinh năm1985, bị cáo là con lớn nhất Vợ: Hà Thị Thắm - Sinh năm 1983 Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2019.

Hiện nay bố, mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại phố Hạ Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 14/4/2020 bị Công an huyện Thanh Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.900.000đ. Ngày 05/3/2021 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tiền, ngày 18/12/2021 tiếp tục phạm tội, chưa hết thời hạn được coi là chưa vi phạm hành chính (theo Khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính) Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

4. Họ và tên: Kiều Thế Đ - Sinh ngày 17/11/1971, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT+ Chỗ ở hiện nay: Khu Hoàng Trung, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 12/12.

Con ông: Kiều Văn T (Đã chết). Con bà: Đinh Thị L - SN 1949.

Anh chị em ruột: Có 04 chị em, lớn nhất, sinh năm 1969, nhỏ nhất sinh năm 1975, bị cáo là con thứ 2 Vợ: Vũ Thị Yến - Sinh năm 1976 Con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Hiện nay mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

5. Họ và tên: Quyền Đình H - Sinh ngày 03/3/1978, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT+ Chỗ ở hiện nay: Khu T, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 3/12.

Con ông: Quyền Đình M (Đã chết). Con bà: Nguyễn Thị C - SN 1947.

Anh chị em ruột: Có 03 anh, em, nhỏ nhất, sinh năm 1982, bị cáo là con lớn nhất Vợ: Đỗ Thị Mai - Sinh năm 1987 Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Hiện nay mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

6. Họ và tên: Nguyễn Văn H - Sinh ngày 24/5/1987, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Nơi ĐKHKTT + Chỗ ở hiện nay: Khu Ngọc Sơn 2, xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 12/12.

Con ông: Nguyễn Văn N - SN 1957. Con bà: Đỗ Thị L - SN 1960.

Anh chị em ruột: Không.

Vợ: Chưa có vợ Hiện nay bố, mẹ bị cáo đang sinh sống tại xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

7. Họ và tên: Nguyễn Văn V - Sinh ngày 20/8/1975, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT+ Chỗ ở hiện nay: Khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 6/12. Con ông: Nguyễn Văn Quyết - SN 1954. Con bà: Trịnh Thị Hậu - SN 1957. Anh chị em ruột: Có 04 anh, em, nhỏ nhất, sinh năm 1987, bị cáo là con lớn nhất Vợ: Lưu Thị Tâm - Sinh năm 1988 (Đã ly hôn) Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014.

Hiện nay bố, mẹ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án: Có 01 tiền án Bản án số 20/2020/HSST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng; phạt bổ sung 10.000.000đ. Đến ngày 18/11/2021 bị cáo Vũ đã chấp hành xong thời gian thử thách. Ngày 22/12/2021 bị cáo Vũ đã nộp số tiền phạt bổ sung 8.000.000đ; Căn cứ vào Khoản 2 điều 70 – Bộ luật Hình sự thì bị cáo chưa được xóa án tích. tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

8. Họ và tên: Lê Văn H - Sinh ngày 23/02/1994, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT+Chỗ ở hiện nay: Khu Đình, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 11/12. Con ông: Lê Văn Mười - SN 1966. Con bà: Phạm Thị Hiền - SN 1966.

Anh chị em ruột: Có 02 chị, em, lớn nhất, sinh năm 1988, bị cáo là con nhỏ nhất Vợ: Nguyễn Thị Hoài Thương - Sinh năm 1994 Con: Có 01 con sinh năm 2017.

Hiện nay bố, mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án + Tiền sự: Không.

Lịch sử bản thân: Ngày 19/10/2015 bị Công an huyện Thanh Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác phạt số tiền 750.000đ. Ngày 16/11/2015 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

9. Họ và tên: Quyền Đình Q - Sinh ngày 27/9/1979, tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ Nơi ĐKHKTT+ Chỗ ở hiện nay: Khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa lớp: 01/12. Con ông: Quyền Đình M (Đã chết). Con bà: Nguyễn Thị C - SN 1947. Anh chị em ruột: Có 03 anh, em, lớn nhất, sinh năm 1978,, nhỏ nhất sinh năm 1982, bị cáo là con thứ hai.

Vợ: Nguyễn Thị H - Sinh năm 1985 Con: Có 01 con sinh năm 2014.

Hiện nay mẹ, vợ, con bị cáo đang sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Lịch sử bản thân: Bản án số 37/2005/HSST ngày 22/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo . Thời gian thử thách 18 tháng về tội đánh bạc. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện nay bị cáo đang thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 18/12/2021, Quyền Đình L, sinh năm 1982; Trần Văn D, sinh năm 1981; Kiều Thế Đ, sinh năm 1971; Quyền Đình H, sinh năm 1978; Nguyễn Văn V, sinh năm 1975; Quyền Đình Q, sinh năm 1979, đều thường trú tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Lê Văn H, sinh năm 1994, thường trú tại khu Đình, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và Nguyễn Văn H, sinh năm 1987, thường trú tại khu Ngọc Sơn 2, xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đến nhà Đinh Minh T, (sinh năm: 1992 ở khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn) để dự giỗ đầu em trai Tự. Khoảng 13 giờ cùng ngày, sau khi ăn cơm và uống rượu xong, Đinh Minh T nghe thấy tiếng người nói “Có làm tý không”, Tự hiểu là mọi người đang rủ nhau đánh bạc sát phạt bằng tiền nên Tự đi vào bên trong bếp của gia đình lấy một chiếc chiếu cói trải sẵn trên nền bếp rồi lấy bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân đã cũ (từ A đến 9) có sẵn tại nhà để xuống chiếu cho mọi người tham gia đánh bạc rồi Tự đi ra ngoài nhà tiếp tục ăn cơm và uống rượu cùng mọi người. Sau đó có Hải, Huy, Đông đi vào bếp nhà Tự trước và ngồi trên chiếu đánh bạc dưới hình thức chơi “Ba cây”, tiếp theo là Hoạch, Lưu, Quỳnh, Duy cũng tham gia vào đánh bạc cùng. Quá trình tham gia đánh bạc các đối tượng tự thống nhất mỗi ván đặt cược tối thiểu là 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng), tối đa là 100.000 đ (Một trăm nghìn đồng). Khi các đối tượng Hải, Huy, Đông, Hoạch, Lưu, Quỳnh và Duy đánh bạc thì Đinh Minh T có đi vào và ngồi trên ghế tại phòng bếp để xem. Một lúc sau có Nguyễn Văn V đến và hỏi vay của Đinh Minh T số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) để tham gia đánh bạc và được Tự đồng ý. Các đối tượng Hải, Huy, Đông, Hoạch, Lưu, Quỳnh, Duy, Vũ đánh bạc liên tục đến 15 giờ cùng ngày thì Tổ công tác của Công an huyện Thanh Sơn phát hiện bắt quả tang. Tại nơi các đối tượng tham gia đánh bạc, Công an huyện Thanh Sơn thu giữ trên chiếu bạc gồm: số tiền 8.200.000đ (Tám triệu hai trăm nghìn đồng), 36 (Ba mươi sáu) quân bài tú lơ khơ và 01 (Một) chiếu cói màu vàng đã cũ. Tạm giữ trên người các đối tượng đánh bạc tổng số tiền 8.800.000 đồng (Tám triệu tám trăm nghìn đồng) và 09 (Chín) chiếc điện thoại di động đã cũ.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn, các đối tượng Đinh Minh T, Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn V, Lê Văn H và Quyền Đình Q đã khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh “Ba cây” được thua bằng tiền như đã nêu trên. Khi tham gia đánh bạc các bị can khai nhận: Lưu có 900.000 đồng (chín trăm ngàn đồng), Đông có 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), Hải có 900.000 đồng (chín trăm ngàn đồng), Hoạch có 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm ngàn đồng), Duy có 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng) và Huy có 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng); Quỳnh có 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và Vũ có 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Đinh Minh T mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng có hành vi dùng nhà của mình cho các đối tượng đánh bạc, là người chuẩn bị chiếu và bài cho các đối tượng đánh bạc, Tự thừa nhận cho Nguyễn Văn V vay số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để Vũ đánh bạc.

Đối với cách thức chơi, các đối tượng cùng khai nhận như sau: Người chơi sử dụng 36 quân bài trong bộ bài tú lơ khơ 52 quân gồm 09 bộ A,1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9; mỗi bộ có bốn chất Rô, Cơ, Tép, Bích. Khi chơi một người cầm bài chia gọi là “Chương” (Phân định bằng ván bài đầu tiên, các ván tiếp theo nếu ai được tròn chục lớn nhất thì là người làm “Chương”). Khi chơi người làm “Chương” cầm bài chia cho mỗi người 03 quân bài rồi cộng điểm 03 quân bài với nhau (A tính là 1) sau đó lấy phần đơn vị làm bài của mình (nếu tròn chục là 10 điểm).

Người chơi so sánh điểm với “Chương” để tính tiền thắng thua, người nào có số điểm cao hơn là thắng và được số tiền đã đặt cược. (Quy định mỗi ván bạc thấp nhất là 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng), cao nhất là 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

Theo hướng dẫn Nghị quyết 01/2010/HĐTP ngày 22/10/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết quy định:

“Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm về tội đánh bạc”. Đối với Đinh Minh T mặc dù không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng Tự đã đồng ý cho Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn V, Lê Văn H và Quyền Đình Q đánh bạc tại nơi ở của mình và cho Vũ vay 2.000.000 đồng để đánh bạc, hành vi của Đinh Minh T không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc và gá bạc nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự đồng phạm về tội đánh bạc.

Ngày 21/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Đinh Minh T, Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn V, Lê Văn H và Quyền Đình Q về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự. Các bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Các quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn phê chuẩn để điều tra.

Quá trình điều tra các bị can đã thừa nhận hành vi đánh bạc được thua bằng tiền như đã nêu trên, lời khai của các bị can là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn lập hồi 15 giờ 00 phút ngày 18/12/2021 cùng các tài liệu chứng cứ khác được Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn thu thập, xác lập có trong hồ sơ vụ án.

Về nguyên nhân, điều kiện, mục đích phạm tội: Vì mục đích vụ lợi cho bản thân muốn chiếm đoạt tài sản của người khác làm tài sản của riêng mình nên các đối tượng đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức “Ba cây”, với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích để lấy tiền phục vụ nhu cầu của bản thân.

* Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị can Đinh Minh T, Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Lê Văn H và Quyền Đình Q không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Bị can Đinh Minh T, Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Lê Văn H được xem xét các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị can Nguyễn Văn V năm 2020 đã thực hiện hành vi phạm tội và bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, chưa được xóa án tích nên với lần phạm tội này không được hưởng tình tiết “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Bị can được xem xét tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị can phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị can Quyền Đình Q năm 2005 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt 09 tháng từ nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng. Chấp hành xong toàn bộ nội dung bản án, đã được xóa án tích với lần phạm tội này bị can không được hưởng tình tiết “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Bị can được xem xét tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Trong vụ án này, Quyền Đình L, Trần Văn D, Kiều Thế Đ, Quyền Đình H, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn V, Lê Văn H và Quyền Đình Q đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nên vai trò là người thực hành trong vụ án. Đinh Minh T không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng là người chuẩn bị chiếu, quân bài tú lơ khơ và cho Vũ vay 2.000.000 đồng để đánh bạc nên Tự là đồng phạm với vai trò giúp sức. Tội phạm không có tính tổ chức.

* Vật chứng, đồ vật và tài sản thu giữ: Cơ quan điều tra đã thu giữ:

8.200.000 đồng (Tám triệu hai trăm nghìn đồng), 36 quân bài tú lơ khơ đã cũ, 01 chiếu cói màu vàng đã cũ đây là số tiền và các đồ vật các bị can sử dụng để đánh bạc. Tạm giữ 09 điện thoại di động, trong đó: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng đã cũ, bên trong lắp sim số 0372.825.846 của Đinh Minh T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A53 màu xanh đã cũ, bên trong lắp sim số 0976.321.749 của Quỳnh Đình Lưu; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Note8 màu xanh đã cũ, bên trong lắp sim số 0987.384.946 của Kiều Thế Đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S màu vàng đã cũ, bên trong lắp sim số 0338.267.368 của Quyền Đình H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG A31, màu đen đã cũ, bên trong lắp sim số 0332.071.389 của Nguyễn Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu ghi đã cũ, bên trong lắp sim số 0384.353.585 của Nguyễn Văn V; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Prime màu vàng đã cũ, màn hình bị vỡ, bên trong lắp sim số 0975.032.237 của Trần Văn D; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A52, màu xanh đã cũ, bên trong lắp sim số 0962.964.226 của Lê Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A50s màu xanh đã cũ, bên trong lắp sim số 0974.153.328 của Quyền Đình Q. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của các bị can, không dùng vào mục đích đánh bạc.

Tạm giữ của Trần Văn D số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng); Lê Văn H số tiền: 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng); Quyền Đình Q số tiền 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng): Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của các bị can, không dùng vào mục đích đánh bạc. Các vật chứng trên được chuyển đến tài khoản và kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh chờ xử lý.

* Kết quả xác minh tình trạng thu nhập, điều kiện kinh tế của các bị can: Các bị can đều là lao động tự do, thu nhập không ổn định.

Bản cáo trạng số:19/CT-VKSTS ngày 16/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Truy tố các bị cáo Đinh Minh T; Quyền Đình L; Trần Văn D; Kiều Thế Đ; Quyền Đình H; Nguyễn Văn H; Nguyễn Văn V; Lê Văn H; Quyền Đình Q về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên – Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Đinh Minh T; Quyền Đình L; Trần Văn D; Kiều Thế Đ; Quyền Đình H; Nguyễn Văn H; Nguyễn Văn V; Lê Văn H; Quyền Đình Q về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm s, Khoản 1 Điều 51, điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

1 - Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn V từ 9 đến 12 tháng tù, được khấu trừ 03 ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

2 - Xử phạt bị cáo: Trần Văn D từ 6 đến 9 tháng tù, được khấu trừ 03 ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Trần Văn D theo Khoản 3 Điều 321- BLHS.

Căn cứ vào: Khoản 1,3 Điều 321, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1,2,4 Điều 36 - Bộ luật Hình sự.

3 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình Q từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 03 ngày bị tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo Quỳnh còn phải chấp hành từ 17 tháng 21 ngày đến 23 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án, giao bị cáo Quỳnh cho UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Phạt bổ sung bị cáo Quyền Đình Q từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ theo Khoản 3 Điều 321- BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

4. Xử phạt bị cáo: Đinh Minh T từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s, Khoản 1 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

5 - Xử phạt bị cáo: Lê Văn H từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước

6 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình L từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước

7 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình H từ từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước

8 -Xử phạt bị cáo:Nguyễn Văn H từ từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước

9 - Xử phạt bị cáo: Kiều Thế Đ từ từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 36 quân bài tú lơ khơ đã cũ; 01 chiếc chiếc chiếu cói màu vàng đã cũ để tiêu hủy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tịch thu số tiền 8.200.000đ (Tám triệu hai trăm ngàn đồng) số tiền này đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Đinh Minh T: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A5, màu hồng đã cũ, bên trong gắn có gắn sim số: 0372.825.846. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình L 01 chiếc điện thoại di động OPPO A53, màu hồng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0976.321.749. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Kiều Thế Đ 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG Note 8 màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0987.384.946. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình H 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu vàng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0338.267.368. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG A31 màu đen đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0332.071.389. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn V 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S PLUS màu ghi đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0384.353.585. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Prime màu vàng đã cũ màn hình bị vỡ, bên trong có gắn sim số: 0975.032. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H 01 chiếc điện thoại di động OPPO A52, màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0962.964.226. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Galaxy A50s màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0974.153.328. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng vụ án trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q số tiền 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số tiền đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Anh Trịnh Phi Hùng, sinh năm 1977 ở khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn; anh Vũ Duy Khánh, sinh năm 1987 ở phố Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là người làm chứng đã được Toà án triệu tập tham gia tố tụng, nhưng anh Hùng, anh Khánh vắng mặt. Tại phiên toà hôm nay bị cáo, Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác có mặt đề nghị Hội đồng xét xử không hoãn phiên toà mà đề nghị tiếp tục xét xử vắng mặt họ. Hội đồng xét xử thấy rằng tại Cơ quan điều tra anh Hùng, anh Khánh đã có biên bản ghi lời khai tại Cơ quan điều được lưu trong hồ sơ vụ án trong vụ án, sự vắng mặt của người làm chứng tại phiên tòa hôm nay không làm thay đổi đến bản chất, nội dung vụ án. Căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ theo hợp quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên toà hôm nay các bị cáo Đinh Minh T; Nguyễn Văn V; Quyền Đình Q; Trần Văn D; Lê Văn H; Nguyễn Văn H; Quyền Đình L; Quyền Đình H; Kiều Thế Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đã truy tố, không oan sai. Lời nhận tội của các bị cáo là phù hợp với vật chứng thu được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã đủ cơ sở kết luận:

Từ 13 giờ 00 đến 15 giờ 00 phút ngày 18/12/2021 tại nhà ở của bị cáo Đinh Minh T thuộc khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, bị cáo Đinh Minh T, sinh năm 1992, thường trú khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn đã cho bị cáo Nguyễn Văn V vay số tiền 2.000.000đ để đánh bạc và đã cho các bị cáo Quyền Đình L, sinh năm 1982;

Quyền Đình H, sinh năm 1978; Nguyễn Văn V, sinh năm 1975; Quyền Đình Q, sinh năm 1979 thường trú tại khu Tân Thành, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn; Trần Văn D, sinh năm 1981, thường trú phố Hạ Sơn, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn; Kiều Thế Đ, sinh năm 1971 thường trú tại khu Hoàng Trung, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn; Nguyễn Văn H, sinh năm 1987, ở khu Ngọc Sơn 2, xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn; Lê Văn H, sinh năm 1994, thường trú khu Đình, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi “Ba cây” được thua bằng tiền với tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 8.200.000đ (Tám triệu hai trăm ngàn đồng) đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn bắt quả tang. Hành vi đánh bạc của các bị cáo cần xử lý theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 – Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 321 – Bộ luật Hình sự quy định.

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét về tính chất vụ án, hành vi phạm tội, tính chất mức độ nguy hiểm, vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét về tính chất vụ án thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng hành vi đánh bạc của các bị cáo Đinh Minh T; Nguyễn Văn V; Quyền Đình Q; Trần Văn D; Lê Văn H; Nguyễn Văn H; Quyền Đình L; Quyền Đình H; Kiều Thế Đ là lỗi cố ý trực tiếp, đây là hành vi hiểm cho xã hội, đã gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, hành vi đánh bạc của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh tại địa phương và làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của gia đình bị cáo và nhiều gia đình khác. Trên địa bàn huyện Thanh Sơn hiện nay các hình thức đánh bạc đang có chiều hướng ra tăng, diễn ra ở nhiều nơi, mặc dù nhiều vụ án đánh bạc đã được đưa ra xét xử nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật, hình thức đánh bạc của các bị cáo ngày càng tinh vi, diễn ra ở nhiều nơi đã gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, hành vi đánh bạc của các bị cáo có tính chất đơn giản, vai trò phạm tội của từng bị cáo không được phân công rõ ràng, nên chỉ coi là đồng phạm trong vụ án mà không coi đó là đánh bạc có tổ chức.

Xét vai trò phạm tội của từng bị cáo thấy rằng, bị cáo Đinh Minh T là người đã đồng ý các bị cáo Huy, bị cáo Duy, bị cáo Vũ, bị cáo Hoạch, bị cáo Hải, bị cáo Quỳnh, bị cáo Lưu, bị cáo Đông tham gia đánh bạc tại nhà ở của mình, sau đó bị cáo Tự chuẩn bị chiếu, bộ bài tú lơ khơ gồm có 36 quân bài từ A đến 9 để cho các bị cáo trên thực hiện hành vi đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 8.200.000đ cụ thể như sau: Bị cáo Vũ có số tiền là 2.000.000đ; bị cáo Hoạch có số tiền là 1.200.000đ; bị cáo Huy có số tiền là 1.100.000đ; bị cáo Quỳnh có số tiền là 1.000.000đ; bị cáo Hải có số tiền là 900.000đ; bị cáo Lưu có số tiền là 9.000đ; bị cáo Duy có số tiền là 800.000đ; bị cáo Đông có số tiền là 300.000đ. Như vậy bị cáo Vũ,bị cáo Hoạch, bị cáo Huy là người đã sử dụng số tiền vào mục đích đánh bạc lớn hơn nên phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác trong cùng vụ án. Xét về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì các bị cáo đều là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì không muốn lao động mà muốn được hưởng thụ từ hành vi trái pháp luật đã cố tình thực hiện hành vi đánh bạc, thể hiện tính coi thường pháp luật. Vì vậy, cần đưa các bị cáo ra xét xử và có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Đối với hành vi của bị cáo Đinh Minh T là người không trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng đã đồng ý các bị cáo Huy, bị cáo Duy, bị cáo Vũ, bị cáo Hoạch, bị cáo Hải, bị cáo Quỳnh, bị cáo Lưu, bị cáo Đông tham gia đánh bạc tại nhà ở của mình, bị cáo Tự đã cho bị cáo Nguyễn Văn V vay số tiền 2.000.000đ để đánh bạc. Hành vi của bị cáo Tự không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc và Gá bạc, nhưng bị cáo Tự là người giúp sức trong vụ án đồng phạm cho các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc, nên bị cáo Tự phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Văn V là người có nhân thân xấu, trước lần phạm tội này đã bị xét xử: Tại bản án số 20/2020/HSST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc. Thời gian thử thách 18 tháng; phạt bổ sung 10.000.000đ. Đến ngày 18/11/2021 bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách; Căn cứ vào Khoản 2 điều 70 – Bộ luật Hình sự thì bị cáo Vũ chưa được xóa án tích đối với bản án nêu trên.

Bị cáo Trần Văn D có 01 tiền sự: Ngày 14/4/2020 bị Công an huyện Thanh Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.900.000đ. Đến ngày 05/3/2021 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tiền, ngày 18/12/2021 tiếp tục phạm tội, chưa hết thời hạn được coi là chưa vi phạm hành chính (theo Khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính).

Bị cáo Quyền Đình Q năm 2005 đã bị xét xử: Bản án số 37/2005/HSST ngày 22/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc. Thời gian thử thách 18 tháng. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Tính đến thời điểm phạm tội bị cáo đã được xóa án tích đối với bản án nêu trên.

Bị cáo Lê Văn H. Ngày 19/10/2015 bị Công an huyện Thanh Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác phạt số tiền 750.000đ. Ngày 16/11/2015 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

Xong trƣớc khi quyết định hình phạt HĐXX nhận thấy: Trong quá trình điều tra các bị cáo Đinh Minh T; bị cáo Nguyễn Văn H; bị cáo Lê Văn H; bị cáo Quyền Đình Q; bị cáo Quyền Đình L; bị cáo Quyền Đình H; bị cáo Kiều Thế Đ chưa có tiền án, tiền sự. Tại phiên tòa hôm nay Bị cáo Tự; bị cáo Vũ; bị cáo Quỳnh; bị cáo Duy; bị cáo Huy; bị cáo Hoạch; bị cáo Lưu; bị cáo Hải; bị cáo Đông đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, sau khi phạm tội các bị cáo được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại địa phương, bị cáo Đinh Minh T có bố đẻ là ông Đinh Văn Thứ tham gia quân đội nhân dân Việt nam có thành tích được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang Hạng ba. Do đó bị cáo Đinh Minh T được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51 – BLHS. Bị cáo Trần Văn D; Lê Văn H; Nguyễn Văn H; Quyền Đình L; Quyền Đình H; Kiều Thế Đ được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51 – BLHS. Bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Quyền Đình Q được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, Khoản 1 Điều 51 – BLHS. Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là“Tái phạm”quy định tại điểm h, Khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo. HĐXX thấy rằng cần xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt, phạt bị cáo Trần Văn D hình phạt tù tại mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật đã quy định, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để các bị cáo tiếp tục lao động, rèn luyện, cải tạo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội. Phạt bị cáo Quyền Đình Q hình phạt cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Quỳnh cho UBND nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND nơi bị cáo cư trú trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ cho bị cáo tiếp tục rèn luyện, lao động cải tạo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội cũng như để bị cáo thấy ®ưîc sù khoan hồng của pháp luật. Phạt bị cáo Đinh Minh T; bị cáo Lê Văn H; Quyền Đình L; Quyền Đình H; Nguyễn Văn H; Kiều Thế Đ hình phạt chính là phạt tiền để sung quỹ Nhà nước.

HĐXX áp dụng Khoản 4 Điều 36 – BLHS buộc bị cáo Quyền Đình Q phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 321 – BLHS thì các bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Trần Văn D còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ xung là hình phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo xác minh của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn thì bị cáo Vũ; bị cáo Duy không có tài sản riêng, các bị cáo đều làm công việc lao động tự do, việc làm không ổn định có mức thu nhập thấp. Do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Vũ, bị cáo Duy theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS là phù hợp.

Phạt bị cáo Quyền Đình Q từ 10.000.000 đến 15.000.000đ theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn thu giữ của bị cáo Đinh Minh T: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A5, màu hồng đã cũ, bên trong gắn có gắn sim số: 0372.825.846; thu giữ của bị cáo Quyền Đình L 01 chiếc điện thoại di động OPPO A53, màu hồng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0976.321.749; thu giữ của bị cáo Kiều Thế Đ 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG Note8 màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0987.384. 946; thu giữ của bị cáo Quyền Đình H 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu vàng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0338.267.368; thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG A31 màu đen đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0332.071.389; thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn V 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S PLUS màu ghi đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0384.353.585; thu giữ của bị cáo Trần Văn D 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Prime màu vàng đã cũ màn hình bị vỡ, bên trong có gắn sim số: 0975.032.237 và số tiền 3.000.000đ; thu giữ của bị cáo Lê Văn H 01 chiếc điện thoại di động OPPO A52, màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0962.964.226 và số tiền 1.400.000đ; thu giữ của bị cáo Quyền Đình Q 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Galaxy A50s màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số:

0974.153.328 và số tiền 4.400.000đ. Cơ quan điều tra xác định các bị cáo không sử dụng điện thoại và số tiền trên vào hành vi phạm tội, nay cần trả lại cho các bị cáo để quản lý sử dụng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trước khi chuẩn bị xét xử Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn đã áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo: Đinh Minh T số 03; Quyền Đình L số 04; Trần Văn D số 05; Kiều Thế Đ số 06; Quyền Đình H số 07; Nguyễn Văn H số 08; Nguyễn Văn V số 09; Lê Văn H số 10; Quyền Đình Q số 11. Nay HĐXX xét thấy nay cần hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo trên theo quy định tại Khoản 1 Điều 125 của BLTTHS là phù hợp.

[3] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 36 quân bài tú lơ khơ đã cũ; 01 chiếc chiếc chiếu cói màu vàng đã cũ để tiêu hủy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tịch thu số tiền 8.200.000đ (Tám triệu hai trăm ngàn đồng) số tiền này đã được chuyển vào tài khoản số: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Đinh Minh T: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A5, màu hồng đã cũ, bên trong gắn có gắn sim số: 0372.825.846. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình L 01 chiếc điện thoại di động OPPO A53, màu hồng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0976.321.749. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Kiều Thế Đ 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG Note8 màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0987.384. 946. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình H 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu vàng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0338.267.368. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG A31 màu đen đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0332.071.389. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn V 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S PLUS màu ghi đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0384.353.585. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Prime màu vàng đã cũ màn hình bị vỡ, bên trong có gắn sim số: 0975.032.237 và số tiền 3.000.000đ. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H 01 chiếc điện thoại di động OPPO A52, màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0962.964.226. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Galaxy A50s màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0974.153.328. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng vụ án trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q số tiền 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D số tiền 3.000.000đ ( Ba triệu đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số tiền tạm giữ của các bị cáo đã được chuyển vào tài khoản:

3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022.

[4] Về án phí: Bị cáo Đinh Minh T; Nguyễn Văn V; Quyền Đình Q; Trần Văn D; Lê Văn H; Nguyễn Văn H; Quyền Đình L; Quyền Đình H; Kiều Thế Đ phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321 - Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Minh T; bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Quyền Đình Q; bị cáo Trần Văn D; bị cáo Lê Văn H; bị cáo Nguyễn Văn H; bị cáo Quyền Đình L; bị cáo Quyền Đình H; bị cáo Kiều Thế Đ phạm tội "Đánh bạc".

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm s, Khoản 1 Điều 51, điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

1 - Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn V 9 (Chín) tháng tù, được khấu trừ 03 ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

2 - Xử phạt bị cáo: Trần Văn D 6 (Sáu) tháng tù, được khấu trừ 03 ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Trần Văn D theo Khoản 3 Điều 321 – Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào: Khoản 1, 3 Điều 321, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 1, 2, 4 Điều 36 - Bộ luật Hình sự.

3 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình Q 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 03 ngày bị tạm giữ từ ngày 18/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo Quỳnh còn phải chấp hành 17 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án, giao bị cáo Quỳnh cho UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Buộc bị cáo Quyền Đình Q phải lao động cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ công đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định tại Mục 3 quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Phạt bị cáo Quyền Đình Q 10.000.000đ theo Khoản 3 Điều 321 – BLHS để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

4. Xử phạt bị cáo: Đinh Minh T 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321, điểm i, điểm s, Khoản 1 Điều 51, Điều 35 - Bộ luật Hình sự.

5 - Xử phạt bị cáo: Lê Văn H 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

6 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình L 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

7 - Xử phạt bị cáo: Quyền Đình H 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

8 - Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn H 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

9 - Xử phạt bị cáo: Kiều Thế Đ 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 47 - Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu: 36 quân bài tú lơ khơ đã cũ; 01 chiếc chiếc chiếu cói màu vàng đã cũ để tiêu hủy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Tịch thu số tiền 8.200.000đ(Tám triệu hai trăm ngàn đồng). Toàn bộ số tiền này đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022 để xung quỹ Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Đinh Minh T: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A5, màu hồng đã cũ, bên trong gắn có gắn sim số: 0372.825.846. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình L 01 chiếc điện thoại di động OPPO A53, màu hồng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0976.321.749. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Kiều Thế Đ 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG Note8 màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0987.384. 946. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình H 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S màu vàng đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0338.267.368. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG A31 màu đen đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0332.071.389. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn V 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6S PLUS màu ghi đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0384.353.585. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Prime màu vàng đã cũ màn hình bị vỡ, bên trong có gắn sim số: 0975.032.237.

Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H 01 chiếc điện thoại di động OPPO A52, màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0962.964.226. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q 01 chiếc điện thoại di động SAM SUNG J7 Galaxy A50s màu xanh đã cũ, bên trong có gắn sim số: 0974.153.328. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số vật chứng vụ án trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Trả lại cho bị cáo Quyền Đình Q số tiền 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Trần Văn D số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn H số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm ngàn đồng). Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ số tiền thu giữ của các bị cáo đã được chuyển vào tài khoản: 3949.0.1054594.00000 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn ngày 30/3/2022.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu, Nộp, Quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đinh Minh T; bị cáo Nguyễn Văn V; bị cáo Quyền Đình Q;

bị cáo Trần Văn D; bị cáo Lê Văn H; bị cáo Nguyễn Văn H; bị cáo Quyền Đình L; bị cáo Quyền Đình H; bị cáo Kiều Thế Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 22/2022/HSST

Số hiệu:22/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về