TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 20/2022/HS-PT NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 09/03/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Văn C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
PHẠM VĂN C, sinh ngày 22/03/1992 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Thôn VD 1, xã HL, huyện V, thành phố Đà Nẵng ; Chỗ ở hiện nay: Khu tái định cư L, xã HL, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H và bà Hồ Thị B;
Tiền án: Ngày 09/11/2018, bị Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 27 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Tiền sự: Ngày 02/7/2018, bị Công an huyện Hòa Vang , thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính hành chính với số tiền 5.000.000 đồng về hành vi Gây thiệt hại đến tài sản của người khác.
Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
- Trong vụ án này còn có các bị cáo Trần Văn T và Trần Thị Q nhưng không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 06/3/2021, Phạm Văn C nhờ một người bạn tên Bi chở đến số nhà 6 xx đường AC, phường HB, quận LC, thành phố Đà Nẵng để đánh bạc với hình thức chơi số đề. Tại đây, C gặp Trần Thị Q và đưa cho Q một tờ giấy có viết sẵn các con số và số tiền đánh đề cụ thể như sau: 17 lô Đà Nẵng (tức là xổ số kiến thiết đài Đà Nẵng) các số: 415, 235, 061, 679, 557 với tổng số tiền là 1.000.000 đồng ; độc đắc Đà Nẵng các số: 429, 617, 193, 015, 938 với tổng số tiền là 600.000 đồng; 18 lô Đà Nẵng các số: 08, 17, 24, 63, 45 với tổng số tiền là 3.500.000 đồng; tổng cộng số tiền đánh đề là 5.100.000 đồng (Năm triệu một trăm ngàn đồng). C yêu cầu Q ghi lại các con số này. Q chép lại những con số do C đưa trên tờ giấy, bên dưới là tờ giấy than và 01 tờ giấy khác nhằm tạo ra 02 bản. Sau khi ghi xong, Q giao cho C một bản chính cùng tờ giấy do C viết sẵn nhưng C không nhận giấy với lý do bỏ trong người đi đường sợ bị Công an phát hiện. C đưa cho Q số tiền ghi đề là 5.100.000 đồng rồi đi uống cà phê, Q để tiền và những tờ giấy có ghi các con số đề (gọi là tịch đề) vào trong tủ. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày, T đi làm về nhà thì nghe Q nói lại đã ghi số đề cho C và bỏ tịch đề trong tủ nên T lập tức dò số theo kết quả xổ số kiến thiết đài Đà Nẵng thì thấy chỉ trúng con số “63” hàng 18 lô đài Đà Nẵng với số tiền đánh là 1.000.000 đồng , tương ứng với số tiền trúng là 5.000.000 đồng nên T khoanh tròn con số 63 lại. Cùng lúc này, C quay lại gặp Q yêu cầu đưa tờ giấy mà C ghi sẵn các con số đánh đề để dò số. Ông T đưa lại tờ giấy cho Q đem ra đưa cho C. Sau khi nhận lại tờ giấy, C đưa cho người bạn tên Bi đi ra bên ngoài để tẩy, sửa số (Bi đã sửa số 617 hàng độc đắc thành số 250). Khoảng 05 phút sau, Bi mang tờ giấy vào đưa cho C và nói là trúng số độc đắc, thấy số trong tờ giấy đã sửa, C đưa tờ giấy và nói với Q là trúng số độc đắc, yêu cầu chung tiền. Q đem tờ giấy vào nhà đưa cho T và nói C trúng độc đắc thì T nói đã dò trước đó không trúng độc đắc. T thấy con số trúng độc đắc là “250” có biểu hiện tẩy sửa nên mở camera thì thấy C và người bạn đi cùng có biểu hiện lén lút, gian dối nên cho rằng C lừa số, sửa số và không đồng ý chung tiền. C và T lời qua tiếng lại gây ồn ào thì được mọi người can ngăn nên C bỏ về.
Do bực tức việc Trần Văn T điện thoại nói với ông Nguyễn Hữu D là cha ruột của chị Nguyễn Thị H - bạn gái C về việc C đánh số đề và lừa số trúng, dẫn đến C và chị H cãi nhau, nên khoảng 09 giờ 30 phút ngày 07/3/2021, C đến nhà T. C từ bên ngoài chạy vào, trên tay cầm cái búa nhưng C chỉ dùng tay phải đánh vào mặt T một cái khiến T ngã xuống nền, lúc này mọi người can ngăn C ra. Sau đó, gia đình T điện báo Công an phường HB đến làm việc. Quá trình làm việc, Công an phường HB đã tạm giữ 02 tờ giấy (tịch đề); số tiền đánh số đề là 5.100.000 đồng vào ngày 06/3/2021.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu , thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự . Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn C 01 (Một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn C số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn T, Trần Thị Q; về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo Bản án.
Ngày 12 tháng 01 năm 2022, bị cáo Phạm Văn C có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo lần đầu phạm tội Đánh bạc, hiện đang nuôi dưỡng bà ngoại, mức án 01 năm tù là nặng, xin xem xét giảm mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Phạm Văn C cùng các đồng phạm về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự, hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp với nhân thân của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng nhân thân xấu nên không thỏa mãn điều kiện hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ở giai đoạn phúc thẩm bị cáo xuất trình tình tiết mới đã nộp khoản tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm thể hiện thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng bổ sung cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Bị cáo Phạm Văn C giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn C thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo cùng các đồng phạm Trần Văn T và Trần Thị Q đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu và kết luận . Hội đồng xét xử Tòa án cấp phúc thẩm có căn cứ xác định: Ngày 06/3/2021, tại nhà số 6xx đường AC, phường HB, quận LC, thành phố Đà Nẵng , Trần Văn T, Trần Thị Q và Phạm Văn C đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi số đề (trong đó T và Q là chủ đề ghi đề, còn C là người chơi đề) với tổng số tiền dùng để đánh bạc là: 10.100.000 đồng (bao gồm 5.100.000 đồng ghi số đề và 5.000.000 đồng được xác định là trúng số đề). Vì vậy, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2021/HS-ST ngày 30/12/2021, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo Phạm Văn C, Trần Văn T, Trần Thị Q về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo C thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.
[2]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Văn C, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến nếp sống văn minh của xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố . Bị cáo có nhân thân xấu, nên cần thiết phải xử phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo , đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội .
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, vai trò phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xử phạt mức án 0 1 (một ) năm tù là có căn cứ, trong khung hình phạt Điều luật quy định.
Tuy nhiên, xét trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã thực hiện việc nộp tiền phạt bổ sung 10 triệu đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm, thể hiện sự ăn năn hối cải của mình; đây là tình tiết mới phát sinh ở cấp phúc thẩm, được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự , cần được áp dụng để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt . Riêng đối với nội dung kháng cáo xin hưởng án treo, xét bị cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo, nên không chấp nhận.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định c ủa pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Văn C, sửa một phần bản án sơ thẩm , giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo .
Căn cứ: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Văn C: 09 (Chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Tiếp tục quy trữ số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) bị cáo Phạm Văn C đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001270 ngày 07/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng để đảm bảo thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 20/2022/HS-PT
Số hiệu: | 20/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về