Bản án về tội đánh bạc số 19/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 03/04/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai (bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh V và điểm cầu thành phần tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2024/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Đỗ Thị H, sinh ngày 12/12/1968 tại huyện B, tỉnh V; nơi cư trú: Tổ C, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh V; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị N (chết); có chồng Bùi Tấn C và có 03 con (lớn nhất sinh năm 1986 và nhỏ nhất sinh năm 2004); tiền án: Không; tiền sự:

01 lần (ngày 20/4/2023 bị Công an xã T, huyện B, tỉnh V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” với số tiền 1.500.000 đồng). Bị cáo tại ngoại và tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Hội trường Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị Mỹ D, sinh năm 1970. Nơi cư trú: Tổ 02, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh V. (vắng mặt)

2. Bà Trần Thị Kim C1, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Tổ 06, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh V. (vắng mặt)

3. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Khóm Đ, phường Đ, thị xã B, tỉnh V. (vắng mặt) Người làm chứng bà Lê Thị Mỹ D, bà Trần Thị Kim C1 và bà Nguyễn Thị Thanh T tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần Hội trường Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15/12/2023, Đỗ Thị H cùng Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ D đi đến nhà của chị Trần Thị Kim C1 thuộc tổ F, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh V chơi. Tại đây, C1 rủ H, T và D chơi đánh bài tứ sắc ăn thua bằng tiền thì tất cả đồng ý.

Cách thức chơi đánh bài và tính thắng thua như sau: Bộ bài tứ sắc có 112 lá bài, gồm các quân bài: Tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa và tốt; mỗi quân bài có 04 màu: xanh, đỏ, vàng, trắng; 04 quân bài giống nhau cùng màu gọi là quằn, 03 quân bài giống nhau cùng màu gọi là khạp, 02 quân bài giống nhau cùng màu gọi là đôi, 01 quân bài lẻ gọi là rác; mỗi bàn có 04 tụ, mỗi tụ được chia 20 lá bài, riêng tụ cái chia bài được 21 lá và đánh trước, các lá bài còn lại được úp trên chiếu bạc nếu người nào không có bài ăn thì rút 01 lá bài úp, ai đánh hết bài rác trên tay thì thắng. Cách tính lệnh bài như sau: Dùng lá bài tứ sắc xếp hình tam giác gọi là lệnh, xếp hình vuông gọi là chục, xếp nhiều hình vuông chồng lên nhau gọi là trăm, 01 lệnh tương đương 100 đồng, 10 lệnh bằng 01 chục, 10 chục bằng 01 trăm; trong 01 chếnh bài một người có 02 trăm, 09 chục và 10 lệnh (tổng cộng là 300 lệnh) tương đương số tiền thắng thua là 30.000 đồng. Cách tính tiền để ăn lệnh như sau: Tướng, tướng - sĩ tượng, xe - pháo - ngựa, đôi ăn rác là 01 điểm; 04 con tốt là 02 điểm; 03 quân bài giống nhau (khạp) là 03 điểm; 03 quân bài giống nhau ăn rác (gọi là khui) là 06 điểm; 04 quân bài giống nhau (quằn) là 08 điểm; ai tới trước được 05 điểm, 07 điểm, 09 điểm, 11 điểm thì lần lượt ăn mỗi tụ 08 lệnh, 10 lệnh, 12 lệnh, 14 lệnh; ngoài ra, người tới bàn trước liền kề thua thêm 40 lệnh; nếu có 01 người thua hết lệnh (gồm 02 trăm, 09 chục và 10 lệnh) thì chếnh bài kết thúc và tính tiền thắng thua theo lệnh.

Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc các đối tượng đang chơi đánh bài thì lực lượng Công an xã T, huyện B phát hiện đến bắt quả tang. Tang vật thu giữ tại chiếu bạc gồm có: 06 bộ bài tứ sắc, số tiền 30.000 đồng và nhiều vật chứng có liên quan.

Qua làm việc xác định: Tổng số tiền tham gia đánh bạc của các đối tượng là 310.000 đồng (gồm 30.000 đồng thu tại chiếu bạc, 60.000 đồng thu của Đỗ Thị H, 30.000 đồng thu của Nguyễn Thị Thanh T, 160.000 đồng thu của Lê Thị Mỹ D và 30.000 đồng của Trần Thị Kim C1 đều cất giấu trong người dùng để đánh bạc).

Qua điều tra, Đỗ Thị H, Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ D, Trần Thị Kim C1 đã khai báo rõ ràng, thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bài tứ sắc ăn thua bằng tiền tại nhà của Trần Thị Kim C1 thì bị bắt quả tang.

Đỗ Thị H có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc trái phép”, vào ngày 20/4/2023 đã bị Công an xã T, huyện B, tỉnh V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.500.000 đồng. Đến ngày 15/12/2023, H tiếp tục đánh bài được thua bằng tiền thì thời hiệu tiền sự chưa hết nên hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đỗ Thị H và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra cho đến nay.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã chứng minh, giải quyết được như sau:

Đối với Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ D, Trần Thị Kim C2 có hành vi đánh bài được thua bằng tiền, nhưng số tiền ăn thua ít, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an huyện B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người với số tiền 1.500.000 đồng và tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền tham gia đánh bạc của D là 160.000 đồng, của T là 30.000 đồng và của C1 là 30.000 đồng. Đồng thời trả lại cho D số tiền 1.940.000 đồng, trả lại cho T số tiền 1.570.000 đồng (cất giữ riêng không dùng để đánh bạc).

Đối với 06 bộ bài tứ sắc, 60 lệnh được làm từ lá bài tứ sắc, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 30.000 đồng thu tại chiếu bạc là tiền đánh bạc, cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước Đối với số tiền 600.000 đồng thu của Đỗ Thị H, H đã dùng 60.000 đồng để đánh bạc, còn 540.000 đồng chưa dùng vào việc đánh bạc. Cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 60.000 đồng và trả lại cho H số tiền 540.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 15/CT-VKSBT ngày 21/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V đã truy tố bị cáo Đỗ Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, năng lực trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đỗ Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị H phạm tội “Đánh bạc”. Về hình phạt chính:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Thị H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đề nghị phạt bị cáo Đỗ Thị H từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đỗ Thị H (do bị cáo có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định).

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 06 bộ bài tứ sắc, 60 lệnh được làm từ lá bài tứ sắc dùng để chơi đánh bạc, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 30.000 đồng thu tại chiếu bạc, là tiền dùng đánh bạc, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 600.000 đồng thu của bị cáo Đỗ Thị H, bị cáo H đã dùng 60.000 đồng để đánh bạc, còn 540.000 đồng chưa dùng đến, nhưng sẽ dùng vào việc đánh bạc. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 600.000 đồng.

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đỗ Thị H nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đỗ Thị H khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V đã truy tố, bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Trong vụ án, những người làm chứng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, những người làm chứng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra. Xét thấy, việc vắng mặt những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

[3] Xét lời khai nhận của bị cáo Đỗ Thị H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản xảy ra sự việc, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Đỗ Thị H có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc trái phép” bị Công an xã T, huyện B, tỉnh V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.500.000 đồng vào ngày 20/4/2023. Đến ngày 15/12/2023, bị cáo Đỗ Thị H tiếp tục đánh bài được thua bằng tiền cùng với Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ D và Trần Thị Kim C1 tại nhà của Trần Thị Kim C1 thuộc tổ F, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh V thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định được số tiền tham gia đánh bạc là 310.000 đồng (gồm 30.000 đồng thu tại chiếu bạc, 60.000 đồng thu của bị cáo H, 30.000 đồng thu của T, 160.000 đồng thu của D và 30.000 đồng của C1 đều cất giấu trong người dùng để đánh bạc).

Như vậy, hành vi của bị cáo Đỗ Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V truy tố bị cáo Đỗ Thị H với tội danh cùng điều luật nêu trên là có căn cứ, hoàn toàn đúng người, đúng tội.

[4] Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo Đỗ Thị H là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự xã hội là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ và trừng trị nghiêm khắc. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và việc đánh bạc bị nhà nước nghiêm cấm, là một tệ nạn xã hội thường dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng, phát sinh nhiều tội phạm khác nhau, nhà nước bằng các quy phạm pháp luật với các chế tài hình sự rất nghiêm khắc để giáo dục, trừng trị những người tham gia vào tệ nạn xã hội này, thế nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài, không phải lao động vất vả nên bị cáo vẫn bất chấp phạm tội thể hiện tính xem thường pháp luật, nên cần phải xử lý nghiêm. Chính vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung, ngăn chặn tệ nạn cờ bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.

[5] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt tương ứng cho bị cáo.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu và đã nhận thức được hành vi vi phạm nên áp dụng Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử lý bị cáo là phù hợp, không cần cách ly khỏi xã hội vẫn đảm bảo việc răn đe, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

[6] Xét bị cáo Đỗ Thị H có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 06 bộ bài tứ sắc, 60 lệnh được làm từ lá bài tứ sắc dùng để chơi đánh bạc, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 30.000 đồng thu tại chiếu bạc, là tiền dùng đánh bạc, cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 600.000 đồng thu của bị cáo Đỗ Thị H, bị cáo H đã dùng 60.000 đồng để đánh bạc, còn 540.000 đồng chưa dùng đánh bạc. Vì vậy, cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 60.000 đồng và trả lại cho bị cáo Đỗ Thị H số tiền 540.000 đồng.

Chấp nhận việc Công an huyện B đã tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền tham gia đánh bạc của Lê Thị Mỹ D là 160.000 đồng, của Nguyễn Thị Thanh T là 30.000 đồng và của Trần Thị Kim C1 là 30.000 đồng. Chấp nhận việc Công an huyện B trả lại cho Lê Thị Mỹ D số tiền 1.940.000 đồng, trả lại cho Nguyễn Thị Thanh T số tiền 1.570.000 đồng (vì không sử dụng để đánh bạc).

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B có sao chép vào 01 đĩa DVD đoạn ghi âm, ghi hình ảnh hỏi cung bị cáo Đỗ Thị H cần lưu theo hồ sơ vụ án để làm chứng cứ.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị H phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị H 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.

Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện B, tỉnh V nhận được quyết định thi hành án.

Giao bị cáo Đỗ Thị H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V để giám sát, giáo dục. Gia đình của bị cáo Đỗ Thị H có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Phạt bị cáo Đỗ Thị H số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Về khấu trừ thu nhập: Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đỗ Thị H.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tứ sắc (đã qua sử dụng), 05 bộ bài tứ sắc (chưa qua sử dụng), 60 lệnh được làm từ lá bài tứ sắc.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 30.000 đồng thu tại chiếu bạc và số tiền 60.000 đồng thu của bị cáo Đỗ Thị H dùng đánh bạc.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Thị H số tiền 540.000 đồng không dùng đánh bạc.

Lưu theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD đoạn ghi âm, ghi hình ảnh hỏi cung bị cáo Đỗ Thị H để làm chứng cứ.

Số tiền 30.000 đồng thu tại chiếu bạc và số tiền 600.000 đồng thu của bị cáo Đỗ Thị H (bị cáo H dùng số tiền 60.000 đồng đánh bạc, còn số tiền 540.000 đồng không dùng đánh bạc), tổng cộng số tiền là 630.000 đồng. Chi cục Thi hành án dân sự huyện B đang tạm giữ theo biên lai thu tiền số: No 0006202 ngày 23/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh V.

(Các vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh V theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/02/2024 giữa Công an huyện B, tỉnh V với Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh V).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đỗ Thị H nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 19/2024/HS-ST

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về