Bản án về tội đánh bạc số 189/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 189/2022/HS-PT NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo Trần Xuân C; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2022/HS-ST ngày 25-01-2022 của Tòa án nhân dân huyện X.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Xuân C, sinh năm 1983 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 27158757X, do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 01-6- 2012; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần P và bà Hà Thị P; có vợ tên Hà Ngọc T và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 103/2015/HS-ST ngày 25-8-2015, bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm, về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 10/QĐ-XPVPHC ngày 06-01-2020, bị Công an xã X, huyện X xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, nộp phạt ngày 09-4-2020 (bút lục từ số 480 đến 482).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-4-2021 đến ngày 28-5-2021; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra, vụ án còn có 16 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, Công an tỉnh Đồng Nai phối hợp Công an huyện X và Công an xã X, phát hiện, bắt quả tang Lâm Nhật V, Nguyễn Vĩnh P, Nguyễn Thành Đại D, Nguyễn Đình L, Nguyễn Văn Đ, Võ Thành M, Lê H, Nguyễn Xuân T, Nguyễn Xuân H, Đặng Thế T, Ngô Văn H, Nguyễn Văn H và Lê Tư P đang tổ chức đánh bạc và đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền tại căn nhà hoang, thuộc ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

Quá trình điều tra xác định, hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc của các bị cáo cụ thể như sau:

1. Phạm Nhân N: Để thu lợi bất chính qua hoạt động đánh bạc, thời gian từ ngày 12/4/2021 đến ngày 22/4/2021, N đứng ra tổ chức chiếu bạc bằng hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền để thu tiền xâu các con bạc khi đến tham gia đánh bạc. Để tổ chức chiếu bạc, N đã bàn bạc thỏa thuận, phân công bị cáo Lê Minh T có nhiệm vụ làm cái xóc đĩa tại sòng bạc; Nguyễn Bá N và Lâm Nhật V có nhiệm vụ thu tiền xâu tại chiếu bạc; Nguyễn Vĩnh P và Nguyễn Thành Đại D có nhiệm vụ cảnh giới, chỉ đường và chở khách vào sòng bạc; Nguyễn Đình L có nhiệm vụ đếm tiền N giao và quản lý túi tiền tại sòng bạc cho N, lấy thuốc, lấy nước phục vụ cho N. N sẽ là người lôi kéo các con bạc đến tham gia đánh bạc, lựa chọn địa điểm để bố trí chiếu bạc, chuẩn bị các công cụ phục vụ đánh bạc, chuẩn bị nước uống cho các con bạc đến tham gia đánh bạc. N sẽ trả công cho T, V, P, D, L, Nh số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng/ngày. Vào ngày 22/4/2021, N mang theo số tiền 40.000.000 đồng đến sòng bạc để thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc, như đưa tiền lẻ để Nh và V thối tiền xâu thu được tại sòng bạc, mua nước, thuốc lá và thức ăn để phục vụ cho các con bạc đến tham gia đánh bạc. Số tiền xâu ngày 22/4/2021, thu được là 1.400.000 đồng. Khi cơ quan Công an bắt quả tang, N cầm túi tiền bỏ chạy đã làm rớt mất. Số tiền N thu lợi bất chính từ hoạt động tổ chức đánh bạc từ ngày 12/4/2021 đến 22/4/2021 là 10.000.000 đồng. Phạm Nhân N bỏ trốn đến ngày 16/8/2021, N đến Công an huyện X đầu thú.

2. Lê Minh T: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với T đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để làm cái xóc đĩa cho các con bạc tham gia đặt cược và T sẽ hưởng lợi số tiền từ người đánh bạc thắng cho T và N sẽ cho T thêm tiền nếu thu được nhiều tiền xâu thì T đồng ý. Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, T đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để làm nhiệm vụ xóc đĩa để các con bạc tham gia đặt cược và N là người chuẩn bị quân vị, chén, đĩa để T xóc đĩa. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, N tổ chức sòng bạc, lúc này có khoảng 20 con bạc tham gia đánh bạc trong sòng. T đang làm nhiệm vụ xóc đĩa để các con bạc tham gia đặt cược thắng thua với nhau thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Số tiền T được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 5.000.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết. Lê Minh T bỏ trốn đến ngày 04/10/2021 thì đến Công an huyện X đầu thú.

3. Nguyễn Bá Nh: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với Nh đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để thu tiền xâu, cách thức thu tiền xâu là khi xóc lên 03 quân vị mặt trắng, 01 quân vị mặt đen Nh sẽ thu tiền xâu 05% (xâu ba trắng) số tiền thắng của người tham gia đặt cược và N trả công cho Nh số tiền từ 300.000 đồng/ngày thì Nh đồng ý. Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, Nh đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X để làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng bạc. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, N tổ chức sòng bạc, lúc này có khoảng 20 con bạc tham gia đánh bạc trong sòng. Nh cùng V làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng, đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi Nh đang làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng bạc thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Thời điểm bị bắt, Nh thu tiền xâu 04 ván với số tiền 1.500.000 đồng và Nh đã giao cho N. Số tiền Nh được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 600.000 đồng. Nguyễn Bá Nh bỏ trốn đến ngày 30/9/2021, Nguyễn Bá Nh đến Công an huyện X đầu thú.

4. Lâm Nhật V: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với V đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để thu tiền xâu, cách thức thu tiền xâu là khi xóc lên 03 quân vị mặt trắng, 01 quân vị mặt đen V sẽ thu tiền xâu 05% (xâu ba trắng) số tiền thắng của người tham gia đặt cược và N trả công cho V số tiền từ 400.000 đồng/ngày đến 600.000 đồng/ngày thì V đồng ý. Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, V đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng bạc. Đến khoảng 22 giờ 30 cùng ngày, N tổ chức sòng bạc, lúc này có khoảng 20 con bạc tham gia đánh bạc trong sòng. V cùng Nh làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng, đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi V đang làm nhiệm vụ thu tiền xâu trong sòng bạc thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Thời điểm bị bắt, V thu tiền xâu 04 ván với số tiền 700.000 đồng và V bỏ hết tiền xâu trên chiếu bạc. Số tiền V được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 600.000 đồng.

5. Nguyễn Vĩnh P: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với P đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để làm nhiệm vụ chở khách vào sòng bạc và canh đường cảnh giới báo động khi thấy lực lượng Công an và N trả công cho P số tiền 200.000 đồng/ngày đến 300.000 đồng/ngày thì P đồng ý. Vào đêm ngày 22/4/2021, N gọi P đến sòng bạc xóc đĩa do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X. P sử dụng xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ biển số 60B5-194.5x để chở con bạc và canh đường cảnh giới. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi P đang làm nhiệm vụ canh đường cảnh giới cho sòng bạc của N thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Số tiền P được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 900.000 đồng.

6. Nguyễn Thành Đại D: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với D đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để làm nhiệm vụ chở khách vào sòng bạc và N trả công cho D số tiền 200.000 đồng/ngày đến 300.000 đồng/ngày thì Dương đồng ý. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, N gọi cho D đến cây xăng số 09 thuộc ấp T, xã X, huyện X để đón và chở con bạc vào sòng bạc xóc đĩa do N tổ chức tại ấp T, xã X. Sau đó D, Nguyễn Vĩnh P và Nh, T (không rõ lai lịch) cùng làm nhiệm vụ chở con bạc và canh đường cảnh giới báo động cho sòng bạc. Dương sử dụng xe mô tô biển số 59P1-092.5x để chở con bạc. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, khi D đang làm nhiệm vụ ở trong sòng bạc của N thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Số tiền D được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 750.000 đồng.

7. Nguyễn Đình L: Do có quen biết từ trước nên N đã thỏa thuận với L đến sòng bạc do N tổ chức tại xã X, huyện X để làm nhiệm vụ đếm tiền N giao và quản lý túi tiền tại sòng bạc cho N, lấy thuốc, lấy nước phục vụ cho N và N trả công cho L số tiền 500.000 đồng/ngày đến 600.000 đồng/ngày thì L đồng ý. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, L đang làm nhiệm vụ phụ giúp N tổ chức sòng bạc xóc đĩa tại ấp T, xã X, huyện X, Đồng Nai thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Số tiền L được hưởng lợi khi giúp N thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là 1.100.000 đồng.

8. Nguyễn Văn Đ: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, Đ thuê Lê Tư P điều khiển xe ô tô Toyota Camry của Đ biển số 72A-443.1x chở Võ Thành M và Bùi Văn K từ huyện C, tỉnh B đến sòng bạc của N để đánh bạc hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền. Đ mang theo số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) để đánh bạc. Đ tham gia đặt cược 03 ván, mỗi ván đặt cược từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, kết quả thua hết số tiền 9.000.000 đồng. Khi bắt quả tang thu giữ trên người Đ số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) số tiền còn lại đã bị rớt trong quá trình bỏ chạy 9. Nguyễn Xuân H: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, H, Nguyễn Xuân T, Ngô Văn H và Đặng Thế Th đi xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova biển số 60A-937.0x do Nguyễn Văn L làm tài xế đến sòng bạc tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền. H mang theo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để đánh bạc và tham gia đặt cược khoảng 05 ván, mỗi ván từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng, kết quả thua hết số tiền 4.800.000 đồng. Khi bị bắt quả tang thu giữ trên người H số tiền 5.200.000 đồng (năm triệu hai trăm nghìn đồng).

10. Ngô Văn H: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, H, Đặng Thế Th, Nguyễn Xuân H và Nguyễn Xuân T, đi xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova biển số 60A-937.0x do Nguyễn Văn L làm tài xế đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền. H mang theo số tiền 9.200.000 đồng (chín triệu hai trăm nghìn đồng), để đánh bạc; tham gia đặt cược khoảng 13 ván, mỗi ván đặt cược từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, kết quả thua hết số tiền 1.000.000 đồng. Khi bắt quả tang thu giữ trên người H số tiền 8.200.000 đồng (tám triệu hai trăm nghìn đồng).

11. Đặng Thế Th: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, Th, Ngô Văn H, Nguyễn Xuân H và Nguyễn Xuân T, đi xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova biển số 60A-937.0x do Nguyễn Văn L làm tài xế, đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền. Th mang theo 9.000.000 đồng (chín triệu đồng) để đánh bạc, tham gia đặt cược khoảng 20 ván, mỗi ván đặt cược từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, kết quả thua hết số tiền 5.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, thu giữ trên người Th số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) 12. Nguyễn Xuân T: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, T, Ngô Văn H, Nguyễn Xuân H và Đặng Thế Th đi xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova biển số 60A-937.0x do Nguyễn Văn Lợi làm tài xế đến sòng bạc do Nghĩa tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc hình thức xóc đĩa thắng thua bằng tiền. T mang theo số tiền 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng), để đánh bạc. T tham gia đặt cược khoảng 15 ván, mỗi ván từ 300.000 đồng đến 1.000.000 đồng, kết quả huề vốn. Khi bị bắt quả tang, thu giữ trên người T số tiền 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng).

13. Trần Xuân C: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22/4/2021, C đi bộ đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để đánh bạc hình thức xóc đĩa, thắng thua bằng tiền. C mang theo số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng), để đánh bạc; tham gia đặt cược khoảng khoảng 15 ván, mỗi ván đặt cược từ 300.000 đồng đến 1.000.000 đồng, kết quả thắng được số tiền 6.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, thu giữ trên người C số tiền 10.500.000 đồng (mười triệu năm trăm nghìn đồng).

14. Lê H: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, H đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc hình thức xóc đĩa, thắng thua bằng tiền. H mang theo số tiền 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc; tham gia đặt cược khoảng 12 ván, mỗi ván từ 400.000 đồng đến 800.000 đồng, kết quả thua hết tiền.

15. Nguyễn Văn H: Vào khoảng 23 giờ 05 phút ngày 22/4/2021, H đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để đánh bạc hình thức xóc đĩa, thắng thua bằng tiền. H mang theo số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), để đánh bạc; tham gia đặt cược 05 ván, mỗi ván đặt cược từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng, kết quả thua hết tiền.

16. Võ Thành M: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, P điều khiển xe ô tô Toyota Camry biển số 72A-443.1x chở M, K và Đ, đến sòng bạc do N tổ chức tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc. M mang theo số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng), để đánh bạc. M tham gia đặt cược 01 ván số tiền 100.000 đồng, khi vừa đặt cược tiền xuống chiếu bạc thì bị lực lượng Công an phát hiện và bắt quả tang. Khi bắt quả tang, thu giữ trên người M số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng).

17. Lê Tư P: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/4/2021, Lê Tư P được Nguyễn Văn Đ thuê làm tài xế lái xe ô tô Toyota Camry biển số 72A-443.1x (xe của Đ) chở Đ, K và M đến sòng bạc tại ấp T, xã X, huyện X, để tham gia đánh bạc, với thỏa thuận trả công cho P số tiền 500.000 đồng; nếu Đ thắng bạc, sẽ cho P thêm 500.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ ngày 22/4/2021, P đang xem đánh bạc thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang.

2. Vật chứng:

- 01 bộ dụng cụ xóc đĩa gồm: 01 đĩa sứ, 01 bát nhựa và 04 quân vị; 01 bộ bài tây đã qua sử dụng (dùng để cắt quân vị); 01 chăn vải dùng làm chiếu bạc và 01 bạt nhựa để người tham gia đánh bạc (con bạc) ngồi; 01 đèn pin.

- Số tiền 11.650.000 đồng (mười một triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ tại chiếu bạc.

- Số tiền 40.450.000 đồng (bốn mươi triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ trên người các bị cáo, gồm:

+ Số tiền 2.000.000 đồng tạm giữ trên người Lâm Nhật V; trong đó, số tiền thu lợi bất chính là 600.000 đồng, còn lại số tiền 1.400.000 đồng là tiền cá nhân của Lâm Nhật V không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Xuân Lộc đã trả số tiền 1.400.000 đồng cho V.

+ Số tiền 1.500.000 đồng tạm giữ trên người Nguyễn Vĩnh P, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 900.000 đồng, còn lại số tiền 600.000 đồng, là tiền cá nhân của Nguyễn Vĩnh P không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện X đã trả số tiền 6.000.000 đồng cho P.

+ Số tiền 150.000 đồng tạm giữ trên người Nguyễn Văn Đ, là tiền sử dụng đánh bạc của Nguyễn Văn Đôn.

+ Số tiền 400.000 đồng tạm giữ trên người Võ Thành M, là tiền sử dụng đánh bạc của Võ Thành M.

+ Số tiền 8.500.000 đồng tạm giữ trên người Nguyễn Xuân T, là tiền sử dụng đánh bạc của Nguyễn Xuân T.

+ Số tiền 5.200.000 đồng tạm giữ trên người Nguyễn Xuân H, là tiền sử dụng đánh bạc của Nguyễn Xuân H.

+ Số tiền 4.000.000 đồng tạm giữ trên người Đặng Thế Th, là tiền sử dụng đánh bạc của Đặng Thế Th.

+ Số tiền 8.200.000 đồng tạm giữ trên người Ngô Văn H, là tiền sử dụng đánh bạc của Ngô Văn H.

+ Số tiền 10.500.000 đồng tạm giữ trên người Trần Xuân C, là tiền sử dụng đánh bạc của Trần Xuân C.

Tổng số tiền đã thu tại chiếu bạc là 50.100.000 đồng (năm mươi triệu một trăm nghìn đồng).

3. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2022/HS-ST ngày 25-01-2022 của Tòa án nhân dân huyện X, đã quyết định:

- Tuyên bố các bị cáo Phạm Nhân N, Lê Minh T, Nguyễn Bá Nh, Lâm Nhật V, Nguyễn Vĩnh P, Nguyễn Thành Đại D và Nguyễn Đình L phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, theo điểm c, d khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Võ Thành M, Lê H, Nguyễn Xuân T, Nguyễn Xuân H, Đặng Thế Th, Ngô Văn H, Nguyễn Văn H, Lê Tư P và Trần Xuân C phạm tội “Đánh bạc”, theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Phạm Nhân N 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Lê Minh T 11 (mười một) tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Nh 10 (mười) tháng tù.

- Xử phạt các bị cáo Lâm Nhật V, Nguyễn Thành Đại D, Nguyễn Vĩnh P và Nguyễn Đình L, mỗi bị cáo 09 (chín) tháng 02 (hai) ngày tù. Trả tự do tại phiên tòa cho các bị cáo này.

- Xử phạt bị cáo Trần Xuân C 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 23/4/2021 đến ngày 28/5/2021. Phạt bổ sung 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2022). Phạt bổ sung 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H, Ngô Văn H, Đặng Thế Th và Nguyễn Xuân T, mỗi bị cáo 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 08 (tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2022). Phạt bổ sung mỗi bị cáo 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Lê H, Nguyễn Văn H và Võ Thành M, mỗi bị cáo 08 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 (một) năm 04 (bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2022). Phạt bổ sung mỗi bị cáo 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Lê Tư P 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 (một) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2022). Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về việc thi hành án treo, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

4. Kháng cáo:

Ngày 08-02-2022, bị cáo Trần Xuân C kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Xuân C về tội “Đánh bạc”, theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Xuân C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc”, theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo:

2.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tại cấp sơ thẩm: Bị cáo Trần Xuân C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Áp dụng cho bị cáo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo Trần Xuân C cung cấp tài liệu, thể hiện bị cáo có tham gia nghĩa vụ quân sự, mẹ bị cáo Hà Thị P được tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất. Áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

2.3. Về hình phạt:

Bị cáo Trần Xuân C có nhân thân như trên nhưng lại phạm tội trong vụ án này, thể hiện sự xem thường pháp luật. Quyết định hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp; mặc dù, tại cấp phúc thẩm bị cáo có tình tiết mới nêu trên, nhung bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao (sửa đổi, bổ sung năm 2022); do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Trần Xuân C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, 2 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

 Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Xuân C.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2022/HS-ST ngày 25-01-2022 của Tòa án nhân dân huyện X.

1. Tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Trần Xuân C 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án Trần Xuân C vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù; được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam, từ ngày 23-4-2021 đến ngày 28-5-2021.

- Phạt bổ sung 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

2. Về án phí:

Bị cáo Trần Xuân C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 189/2022/HS-PT

Số hiệu:189/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về