Bản án về tội đánh bạc số 18/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 15 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện G, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Đăng Đ, sinh năm 1974; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Thôn Đại Giáp, xã Đại Lâm, huyện G, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do;

Văn hóa: 7/12.

Con ông: Dương Đăng T (đã chết).

Con bà: N Thị N, sinh năm 1930. Gia đình có 11 anh, chị, em, bị can là thứ 10. Vợ: N Thị L, sinh năm 1980.

Bị can có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2009.

Nhân thân:

+ Bản án số 10/2003/HSST ngày 27/3/2003 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh B xử phạt 09 tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo.

+ Bản án số 35/2013/HSPT ngày 21/3/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/3/2014; chấp hành xong án phí ngày 13/5/2013.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện G (Có mặt tại phiên tòa);

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- N Văn Q, sinh năm 1991 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn L Hoa, xã Xương Lâm, huyện G, tỉnh B.

- Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1981 (vắng mặt);

Địa chỉ: TDP Hoành Sơn, TT Vôi, huyện G, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Đăng Đ, sinh năm 1974 mở phòng trà ca nhạc tại nhà ở thôn Đại Giáp, xã Đại Lâm, huyện G do hám lợi nên khoảng 17 giờ ngày 14/12/2023, Q và Q đến nhà Đ hát, sau đó Q hỏi Đ có biết ai ghi số lô, đề không, Đ hỏi ghi nhiều không thì Q bảo ghi mấy con. Thấy vậy Đ nghĩ Q và Q ghi ít nên đã nhận ghi số lô, đề và tự mình trả thưởng cho người chơi nếu trúng. Q bảo Đ ghi các số lô, đề gồm: Lô 46, 64, 54, 45, 36, 63, 69, 96, 57, 75 mỗi số 07 điểm; lô xiên 3 các cặp số (58,85,38), (45,54,46), (69,96,36), (57,75,54) và (36,63,70) mỗi cặp 10.000 đồng; lô xiên 2 các cặp số (46,64), (45,54), (36,63), (69,96), (57,75) mỗi cặp 10.000 đồng, tổng số tiền đánh bạc giữa Đ và Q là 2.610.000 đồng; Đ ghi các số lô, đề của Q đánh ra một mảnh giấy nhỏ rồi đưa lại cho Q và thu tiền. Q bảo Đ ghi cho các số lô, đề gồm: lô 46, 64, 58, 70, 63, 36, 38 mỗi số 7 điểm; lô xiên 3 các cặp số (46,64,63), (58,70,69), (96,69,58) mỗi cặp 10.000 đồng; lô xiên 2 cặp số (64,46), (58,38) mỗi cặp 10.000 đồng, tổng số tiền đánh bạc giữa Đ và Q là 1.627.000 đồng; Đ ghi các số lô, đề Q đánh ra một mảnh giấy rồi đưa cho Q và thu tiền. Tổng số tiền Đ ghi số lô, đề cho Q và Q là 4.237.000 đồng. Sau khi xem kết quả xổ số miền Bắc, biết đã trúng thưởng như trên nên khoảng hơn 11 giờ ngày 15/12/2023, Q và Q cùng nhau đến nhà Đ để nhận thưởng. Khi đến nơi, Q bảo Đ ghi cho các số đề đặc biệt gồm: 41, 47, 74, 76, 67, 65 mỗi số 10.000 đồng hết số tiền là 60.000 đồng. Khi Đ đang ghi số đề Q mới đánh ra một tờ giấy, chưa kịp thanh toán tiền thắng thua của ngày 14/12/2023 thì bị Tổ công tác Công an huyện G phát hiện bắt quả tang, thu giữ các vật chứng:

- Thu giữ trên bàn uống nước tại phòng trà nhà Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A16K màu đen, số IMEI 863348054968739; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A12 màu xanh, số IMEI 865073041002131; 01 bút bi mực màu đen và 01 tờ giấy có ghi chữ và số (cáp số lô, đề ký hiệu A1) .

- Thu giữ tại túi quần trước bên phải Đ đang mặc số tiền 2.500.000 đồng.

- Thu giữ trên tay N Văn Q 01 tờ giấy có ghi chữ và số (cáp số lô, đề ký hiệu A2).

- Thu giữ tại túi quần sau bên trái Hoàng Văn Q đang mặc 01 tờ giấy có ghi chữ và số (cáp số lô, đề ký hiệu A3).

Ngày 18/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G ra Quyết định trưng cầu giám định chữ số và chữ viết trên 03 tờ giấy ký hiệu A1, A2, A3 thu giữ của Đ, Q và Q. Tại bản Kết luận giám định số 2487/KL-KTHS ngày 19/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Chữ viết trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu A1, A2, A3) so với chữ viết của Dương Đăng Đ trên các tài liệu mẫu (ký hiệu từ M1 đến M5) là do cùng một người viết ra.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận:

- Về cách thức đánh bạc và cách tính trả thưởng các đối tượng thoả thuận: Kết quả trúng thưởng sẽ so sánh với 02 hoặc 03 số cuối các giải xổ số kiến thiết miền Bắc hằng ngày, cụ thể: Đề đặc biệt (đánh 02 số bất kỳ rồi so với 02 số cuối của giải đặc biệt), trúng thưởng Đ sẽ trả số tiền gấp 70 lần số tiền khách đánh; đề lô (đánh 02 số bất kỳ rồi so với 02 số cuối của tất cả các giải), Đ thu 23.000 đồng/01 điểm lô, trúng thưởng sẽ trả cho khách số tiền 80.000 đồng/01 điểm; đề lô xiên 2 và xiên 3 (đánh 02, 03 cặp số bất kỳ rồi so với tất cả các giải), Đ thu 10.000 đồng/01 điểm lô xiên, trúng thưởng sẽ trả cho khách số tiền 100.000 đồng/ 01 điểm lô xiên 2 và 400.000 đồng/ 01 điểm lô xiên 3.

Kết quả xổ số miền Bắc ngày 14/12/2023 xác định Q trúng thưởng các số lô 36, 45, 64, 75 mỗi số 07 điểm, tổng 28 điểm tương đương số tiền trúng thưởng là 2.240.000 đồng. Q trúng thưởng các số lô 36, 64 mỗi số 7 điểm, tổng 14 điểm tương đương số tiền trúng thưởng là 1.120.000 đồng. Tổng số tiền trúng thưởng mà Đ phải trả cho Q và Q là 3.360.000 đồng; tổng số tiền Đ đánh bạc với Q và Q 7.597.000 đồng, trong đó: Đ đánh bạc với Q số tiền 4.850.000 đồng, Đ đánh bạc với Q số tiền 2.747.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 20/2/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Dương Đăng Đ về tội vào tội "Đánh bạc" quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan. Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được Hội đồng xét xử công bố lời khai, bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo. Đai diên Viên kiêm sat giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS;

Xử phạt: Bị cáo Dương Đăng Đ từ 6 tháng tù đến 8 tháng tù về tội “Đánh bạc”;

thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 15/12/2023;

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước - Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực màu đen; 03 tờ giấy có ghi chữ và số (cáp số lô, đề ký hiệu A1, A2, A3) lưu cùng hồ sơ vụ án. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A16K màu đen, số IMEI 863348054968739; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A12 màu xanh, số IMEI 865073041002131 và 2.500.000 đồng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án. Buộc bị cáo nộp lại số tiền tiền dùng đánh bạc là 7.597.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, đại diện VKSND huyện G còn đề nghị: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, nhận thức hành vi của mình đã thực hiện là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi và quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Hội đồng xét xử thấy, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng những người này vắng mặt, trong quá trình điều tra những người này đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử, HĐXX căn cứ điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt áp dụng: Trước cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Lợi dụng việc Nhà nước tổ chức giải xổ số kiến thiết miền Bắc nên khoảng 17 giờ ngày 14/12/2023 tại nhà ở của Dương Đăng Đ ở thôn Đại Giáp, xã Đại Lâm, huyện G, tỉnh B; Đ có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, đề cho N Văn Q với số tiền 2.610.000 đồng; ghi số lô, đề cho Hoàng Văn Q với số tiền 1.627.000 đồng. Kết quả xổ số miền Bắc ngày 14/12/2023 xác định Q đã trúng thưởng 2.240.000 đồng; Q trúng thưởng 1.120.000 đồng. Như vậy tổng số tiền Đ dùng đánh bạc là 7.597.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, các vật chứng đã thu hồi cũng như lời khai của những người tham gia tố tụng k hác đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu + Ngày 27/3/2003 Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh B xử phạt 09 tháng tù về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo.

+ Ngày 21/3/2013 Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/3/2014; chấp hành xong án phí ngày 13/5/2013.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

-Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có anh trai là Liệt sỹ và bị cáo là người trực tiếp thờ cúng Liệt sỹ. Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đánh giá về hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến lĩnh vực an toàn xã hội và trật tự công cộng địa phương gây bức xúc trong quần chúng nhân dân là nguyên nhân phát sinh một số tệ nạn xã hội khác, do vậy cần phải xử lý nghiêm áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi vi phạm mà bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Bị cáo phạm tội vì mục đích vụ lợi và đều có tài sản, thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự [6] Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo cho việc thi hành án, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày là phù hợp với quy điṇ h tai Điều 329 BLTTHS.

[7] Đối với Hoàng Văn Q và N Văn Q có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, đề với Đ nhưng số tiền đánh bạc của mỗi người dưới 5.000.000 đồng, cả 02 đối tượng chưa có tiền án, tiền sự về hành vi “Đánh bạc”, “Tổ chức đánh bạc, gá bạc” nên hành vi này không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu đến Công an huyện G ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Q và Q.

[8] Đối với hành vi bán số lô, đề của Dương Đăng Đ ngày 15/12/2023, theo đề nghị của Công an huyện G, ngày 05/02/2024 Chủ tịch UBND huyện G đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ về hành vi này (phạt tiền 15.000.000 đồng).

[9] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 33, điểm c khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- 01 bút bi mực màu đen là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 03 tờ giấy có ghi chữ và số (cáp số lô, đề ký hiệu A1, A2, A3) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo được lưu cùng hồ sơ vụ án.

- Số tiền 2.500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A16K màu đen, số IMEI 863348054968739; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A12 màu xanh, số IMEI 865073041002131 của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

- Buộc bị cáo Dương Đăng Đ nộp lại số tiền bị cáo dùng đánh bạc là 7.597.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

[10] Ngoài ra cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/NQ-UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự để buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Đăng Đ 7 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 15/12/2023. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước

2. Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực màu đen;

- Trả lại cho bị cáo số tiền và 2.500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A16K màu đen, số IMEI 863348054968739 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A12 màu xanh, số IMEI 865073041002131 nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

- Buộc bị cáo Dương Đăng Đ nộp lại số tiền bị cáo dùng đánh bạc là 7.597.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

(Đặc điểm vật chứng của vụ án theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện G).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/NQ-UBNTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án - Buộc bị cáo Dương Đăng Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Dương Đăng Đ có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 18/2024/HS-ST

Số hiệu:18/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về