TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 18/2022/HS-PT NGÀY 25/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 349/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo Lê Xuân L và 03 bị cáo về tội “Đánh bạc”, do có kháng cáo của bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2021/HS-ST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Xuân L, sinh năm 1957, tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 7/10; con ông: Lê H (đã chết) và bà Lê Thị Đ (đã chết); vợ Đồng Thị T, bị cáo có 03 người con, con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1989; tiền án, tiền sự; không.
Nhân thân: Tại Bản án số 112/2017/HSST ngày 20/11/2017 của Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, bị cáo bị xử phạt 01 năm tù về tội "Đánh bạc", nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm.
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’leo từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú;
bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Phan Văn H, sinh năm 1986, tại tỉnh Đăk Lăk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Y, huyện P, tỉnh Đăk Lăk; chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 10/12; con ông: Phan Văn K (đã chết) và bà Thái Thị Hồng L, sinh năm 1963; có vợ là Nguyễn Thị Ngọc T, bị cáo có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự; không.
Nhân thân: Tại Bản án số 33/2010/HSST, ngày 05/8/2010 của Toà án nhân dân huyện Krông Păk, bị cáo bị xử phạt 01 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm. Tại Bản án số 112/2017/HSST ngày 20/11/2017 của Toà án nhân dân huyện Ea H’leo, bị cáo bị xử phạt 09 tháng tù về tội "Đánh bạc", nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng.
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’leo từ ngày 01/02/2021, đến ngày 09/02/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú;
bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979, tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm B, xã S, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Võ Thị C, sinh năm 1944; vợ Hà Thị D, sinh năm 1978; bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án số 200 ngày 24/6/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An, bị cáo bị xử phạt 03 năm tù về tội "Cướp tài sản".
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’leo từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
4. Hoàng Thị D, sinh năm1973, tại tỉnh Thanh Hoá; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; con ông: Hoàng Thế L (đã chết) và bà Lê Thị Ê, sinh năm 1940; chồng Nguyễn Tuấn L, sinh năm 1967; bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự; không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’leo từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 31 tháng 01 năm 2021, Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D đang ngồi uống cà phê tại quán của Lương Thị H1 thuộc Thôn 1, xã E, huyện H, thì L nảy sinh ý định đánh bài phỏm thắng thua bằng tiền nên L rủ H, Đ, D đánh bạc thì tất cả đồng ý. Lúc này, H nhờ H1 đi mua 02 bộ bài tú lơ khơ rồi L, H, D, Đ đánh bạc tại phòng khách của nhà H1. Sợ ảnh hưởng đến việc buôn bán nên H1 nói tất cả đi vào phòng ngủ số 2 trong nhà H1 để đánh bạc. Lúc này, L, H, D, Đ sử dụng 04 cái ghế nhựa, 01 cái bàn nhựa và 01 cái chăn rồi bỏ tiền ra đánh bạc. L bỏ ra số tiền 2.000.000 đồng, H bỏ ra số tiền 1.000.000 đồng, D bỏ ra số tiền 1.500.000 đồng và Đ bỏ ra số tiền 2.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Tất cả thống nhất hình thức đánh bạc như sau: L, H, Đ và D ngồi thành vòng tròn, sử dụng bộ bài tu lơ khơ bằng giấy 52 quân, người chia bài được 10 quân, ba người còn lại chia 09 quân, số bài còn lại úp xuống chăn. Sau khi chia bài, người được chia bài chọn một quân bài trong các quân bài của mình đánh xuống chăn trước người bên cạnh người thứ hai, người thứ hai thấy quân bài này có thể ghép với các quân bài trên tay của mình thành phỏm thì có thể ăn, nếu không ăn thì bốc một quân bài ở giữa chăn rồi lại đánh một quân bài, người thứ ba và thứ tư tiếp tục như người thứ hai, cứ như thế bốn người đánh đến khi hết bài ở giữa chăn hoặc dừng lại nếu có người “Ù”. Nếu bốc hết bài thì sẽ tính điểm trên tay của từng người, nếu người nhỏ điểm nhất thì ăn ba người còn lại. Cách tính điểm như sau: Các quân bài trên tay không sắp thành phỏm thì cộng lại để tính điểm, quân A (xì) tính 01 điểm, cứ như vậy tăng dần đến quân K (già) là 13 điểm. Cách tính phỏm như sau: Ba quân, bốn quân giống nhau là một phỏm, ba quân liền nhau (ví dụ 7, 8, 9) cùng chất là một phỏm. Cách tính “Ù” là người có ba phỏm. Cách tính tiền như sau: Nếu người “Ù” thì ba người còn lại chung cho người “Ù” số tiền 100.000 đồng, người có điểm nhỏ nhất được người nhỏ điểm thứ hai chung số tiền 20.000 đồng, người thứ ba chung số tiền 40.000 đồng, người thứ tư chung số tiền 60.000 đồng, người nào không có phỏm (cháy) phải chung 80.000 đồng... Đến khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, trong lúc L, H, Đ và D đang sát phạt thắng thua thì bị Công an huyện Ea H’leo phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ số tiền 6.500.000 đồng, trong đó có 100.000 đồng tiền xâu; 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã qua sử dụng; 01 cái chăn; 01 cái bàn nhựa và 04 cái ghế nhựa.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 70/2021/HSST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ, Hoàng Thị D phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lê Xuân L 01 (Một) năm tù. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021;
Xử phạt các bị cáo Phan Văn H và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo 09 (chín) tháng tù. Khấu trừ thời gian các bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Thị D 06 (sáu) tháng tù. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/2021;
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên cải tạo không giam giữ đối với 01 bị cáo khác nhưng không có kháng cáo, kháng nghị; tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/10/2021 các bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 05/10/2021 bị cáo Hoàng Thị D kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 07/10/2021 bị cáo Nguyễn Văn Đ kháng cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo L, H và Đ thấy rằng: Mặc dù, tại cấp phúc thẩm bị cáo L trình bày bị cáo từng tham gia quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới so với cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, mức hình phạt 01 năm tù mà bản án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo L, 09 tháng tù đối với bị cáo H và Đ là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo. Các bị cáo L, H và Đ đều có nhân thân xấu đều đã bị xét xử về tội đánh bạc, cướp tài sản nhưng nay tiếp tục phạm tội. Nên không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Đối với bị cáo Hoàng Thị D phạm tội với nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt nên nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm Điều 65 của BLHS cho bị cáo được hưởng án treo, kèm thời gian thử thách.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Các bị cáo không tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét lời khai của các bị cáo khác tại phiên tòa phúc thẩm, là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 31 tháng 01 năm 2021, tại nhà bị cáo Lương Thị H1, bị cáo Lê Xuân L đã khởi xướng, rủ rên các bị cáo Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ, Hoàng Thị D đánh bạc với hình thức đánh phỏm thắng thua bằng tiền. Khi đánh bạc, Lê Xuân L bỏ ra số tiền 2.000.000 đồng; Phan Văn H bỏ ra số tiền 1.000.000 đồng; Nguyễn Văn Đ bỏ ra số tiền 2.000.000 đồng; Hoàng Thị D bỏ ra số tiền 1.500.000 đồng. Khi bị Công an huyện H phát hiện bắt quả tang, số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 6.500.000 đồng. Trong đó, có 100.000 đồng là tiền xâu trả cho Lương Thị H1. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ xin giảm nhẹ hình phạt và kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Hoàng Thị D. HĐXX thấy rằng: Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội, khi quyết định hình phạt Bản án sơ thẩm đã áp đúng, đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Mặc dù, tại cấp phúc thẩm bị cáo L khai có thời gian tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng bổ sung cho bị cáo L. Tuy nhiên mức hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo L, 09 tháng tù đối với bị cáo H và Đ, 06 tháng tù đối với bị cáo D là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi của các bị cáo. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Cần giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các cáo Lê Xuân L, Phạm Văn H, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Xuân L, Phạm Văn Hà, Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị D – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số:
70/2021/HSST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk đối với các bị cáo về hình phạt.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt bị cáo Lê Xuân L 01 (Một) năm tù về tội “ Đánh Bạc” - Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt: các bi cáo Phan Văn H và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo 09 (chín) tháng tù về tội “ Đánh bạc” - Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
+ Xử phạt bị cáo Hoàng Thị D 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày bắt thi hành án. Các bị cáo đều được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2021 đến ngày 09/02/202.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Xuân L, Phan Văn H, Nguyễn Văn Đ, và Hoàng Thị D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 18/2022/HS-PT
Số hiệu: | 18/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về