TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 179/2021/HS-PT NGÀY 30/12/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 157/2021/TLPT-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 130/2021/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Cu con), sinh năm 1983 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số 1/7/14, đường ĐX 43, tổ 22, khu phố 5, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Kvà bà Nguyễn Thị B; có vợ là bà Nguyễn Thị Ngọc N và 02 con; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2020 đến ngày 01/7/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và tạm hoãn xuất cảnh.
2. Nguyễn Hà M (tên gọi khác: Cọp), sinh năm 1986 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số 583, đường H, tổ 18, khu phố 4, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị U; có vợ là bà Hồ Mỹ P và 01 con; tiền án: ngày 05/7/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội “Hủy hoại tài sản”, ngày 05/01/2020 chấp hành xong bản án (chưa được xóa án tích); tiền sự: không; nhân thân: ngày 27/7/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm 06 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/4/2020 và tạm giam đến ngày 28/7/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và tạm hoãn xuất cảnh.
3. Đặng Thanh T, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số 06, đường ĐX 22, tổ 15, khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn H và bà Nguyễn Thị Mỹ K; có vợ là bà Nguyễn Thị H và 01 con; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: ngày 23/8/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và ngày 27/3/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố T ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, ngày 03/01/2018 được miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại; bị tạm giữ, tạm giam ngày 30/4/2020 đến ngày 28/7/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh.
Trong vụ án còn có 06 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 30/4/2020, Đỗ Hoài N tại tổ chức ăn uống tại nhà số 44/19, tổ 19, khu phố 5, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương của Đỗ Hoài N nên Nam rủ Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C, Tống Minh Đ và Nguyễn Huy C đến nhà Đỗ Hoài N cùng ăn uống. Trong lúc ăn uống, Nguyễn Văn L rủ nhau chơi lắc bầu cua thắng thua bằng tiền do Nguyễn Văn L làm cái thì tất cả đồng ý. Riêng Đỗ Hoài N do say nên không tham gia chơi mà bỏ đi ra phía sau nhà nằm ngủ. Sau đó, Nguyễn Văn L đi đến tiệm tạp hóa gần đó mua 02 (hai) bộ bầu cua để chơi đánh bạc. Khi tham gia đánh bạc, Nguyễn Văn L làm cái để Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C, Tống Minh Đ đặt tiền. Khi làm cái, Nguyễn Văn L và Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C, Tống Minh Đ thống nhất mỗi ván mỗi người chơi đặt cược số tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Hình thức lắc bầu cua thắng thua bằng tiền cụ thể như sau: người làm cái sử dụng 03 (hột) bầu cua bằng giấy (mỗi hột có 06 mặt, mỗi mặt in một hình gồm: bầu, cua, tôm, cá, gà, nai) đặt trên một đĩa nhôm rồi úp lên trên đĩa nhôm bằng một hộp giấy hình trụ tròn có dán băng keo đen kín một đầu. Sau đó, người làm cái lắc 03 (ba) hột bầu cua và đặt xuống, tiếp đó người chơi sẽ đặt tiền vào các ô có in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai trên một tấm giấy. Khi người chơi đặt tiền xong, người làm cái mở hộp giấy hình trụ tròn có dán băng keo đen kín một đầu ra để xem kết quả thắng thua, nếu 01 trong 03 mặt ngửa của 03 (ba) hột bầu cua có in hình trùng với hình mà người chơi đặt thì người làm cái sẽ chung tiền cho người chơi bằng số tiền mà người chơi đã đặt, nếu 02 mặt ngửa của 03 (ba) hột bầu cua có in hình giống nhau và giống với hình người chơi đã đặt tiền thì người làm cái chung tiền cho người chơi theo tỷ lệ gấp đôi, nếu mặt ngửa của 03 (ba) hột bầu cua có in hình giống nhau và giống với hình người chơi đã đặt tiền thì người làm cái chung tiền cho người chơi theo tỷ lệ gấp ba. Ngược lại nếu mặt ngửa của 03 (ba) hột bầu cua có in hình không trùng với hình mà người chơi đặt thì người làm cái sẽ thắng số tiền mà người chơi đã đặt.
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C và Tống Minh Đ về hành vi cùng tham gia đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc bầu cua và thu giữ vật chứng, gồm:
- 01 (một) bộ bầu cua đã qua sử dụng gồm: 01 (một) tấm giấy in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai kích thước (40x60) cm; 03 (ba) hột giấy có 06 mặt in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; 01 (một) hộp giấy hình trụ tròn có dán băng keo đen kín một đầu; 01 (một) đĩa nhôm.
- 01 (một) bộ bầu cua chưa qua sử dụng.
- Số tiền thu giữ trên chiếu bạc: 4.200.000 đồng.
- Thu giữ số tiền trên người các đối tượng sử dụng để đánh bạc:
+ Thu giữ của Nguyễn Văn L: 13.500.000 đồng.
+ Thu giữ của Nguyễn Văn C: 800.000 đồng;
+ Thu giữ của Nguyễn Văn T: 4.300.000 đồng.
+ Thu giữ của Nguyễn Hà M: 2.200.000 đồng.
+ Thu giữ của Nguyễn Văn H: 2.700.000 đồng.
+ Thu giữ của Đặng Thanh T: 100.000 đồng;
+ Thu giữ của Huỳnh Văn H: 15.300.000 đồng.
+ Thu giữ của Lê Dương L: 5.200.000 đồng.
+ Thu giữ của Tống Minh Đ: 3.300.000 đồng.
- Thu giữ tư vật của các đối tượng:
+ Thu giữ của Nguyễn Văn L: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J3, màu xám; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Air Blade, màu đỏ-đen, biển số 61B2- 194.56.
+ Thu giữ của Nguyễn Văn C: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu bạc; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng.
+ Thu giữ của Nguyễn Văn T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A5; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh; 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu xanh-đen-bạc, biển số 61E1-618.64.
+ Thu giữ của Nguyễn Hà M: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen-bạc, biển số 61U2-9378.
+ Thu giữ của Nguyễn Văn H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen.
+ Thu giữ của Huỳnh Văn H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen; 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen-trắng, biển số 61B1-247.41.
+ Thu giữ của Tống Minh Đ: 01 (một) xe mô tô hiệu Vario, màu đen, không biển số (bút lục số 165-172).
Số tiền dùng để đánh bạc của từng đối tượng như sau:
1. Nguyễn Văn L dùng 10.000.000 đồng làm cái cho các con bạc đặt tiền, khi bị bắt thì Nguyễn Văn L đã thắng 3.500.000 đồng nên bị tạm giữ 13.500.000 đồng.
2. Nguyễn Văn H dùng 2.700.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt thì Nguyễn Văn H không thắng không thua nên bị tạm giữ 2.700.000 đồng.
3. Đặng Thanh T dùng 280.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt Đặng Thanh T đã thua 180.000 đồng nên bị tạm giữ 100.000 đồng.
4. Huỳnh Văn H dùng 15.000.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt thì Huỳnh Văn H đã thắng số tiền 300.000 đồng nên bị tạm giữ 15.300.000 đồng.
5. Lê Dương L dùng 3.500.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt thì Lê Dương L đã thắng 1.700.000 đồng nên bị tạm giữ 5.200.000 đồng.
6. Nguyễn Hà M dùng 2.600.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt Nguyễn Hà M đã thua 400.000 đồng nên bị tạm giữ 2.200.000 đồng.
7. Nguyễn Văn T dùng 4.500.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt Nguyễn Văn T đã thua 200.000 đồng nên bị tạm giữ 4.300.000 đồng.
8. Nguyễn Văn C dùng 500.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt Nguyễn Văn C đã thắng 300.000 đồng nên bị tạm giữ 800.000 đồng.
9. Tống Minh Đ dùng 3.000.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt Tống Minh Đ đã thắng 300.000 đồng nên bị tạm giữ 3.300.000 đồng.
10. Tiền mặt 4.200.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc là của Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C và Tống Minh Đ bỏ ra để đánh bạc nhưng chưa có kết quả thắng thua.
Như vậy, tổng số tiền Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C và Tống Minh Đdùng để đánh bạc là 51.600.000 đồng.
Đối với Nguyễn Huy C, quá trình điều tra xác định: khi Nguyễn Văn L làm cái cho các con bạc khác tham gia đặt tiền thì Nguyễn Văn L, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C khai nhận Nguyễn Huy C có tham chơi đánh bạc nhưng không xác định được Nguyễn Huy C chơi bao nhiêu ván, mỗi ván Nguyễn Huy C đặt bao nhiêu tiền, Nguyễn Huy C sử dụng bao nhiêu tiền để đánh bạc và không xác định được thời điểm Nguyễn Huy C tham gia đánh bạc thì tổng số tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc là bao nhiêu; còn Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Nguyễn Hà M, Tống Minh Đ không xác định được Nguyễn Huy C có tham gia đánh bạc hay không. Đồng thời tại thời điểm Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T kiểm tra bắt quả tang thì Nguyễn Huy C đã bỏ về trước, không có mặt tại sòng bạc và Nguyễn Huy C khai nhận do say xỉn nên bỏ về trước và không tham gia đánh bạc nên chưa đủ căn cứ để xác định Nguyễn Huy C đồng phạm về tội Đánh bạc. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 130/2021/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Về tội danh:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T phạm tội “Đánh bạc”.
Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 01/7/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hà M 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 28/7/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đặng Thanh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 28/7/2020.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 21/7/2021, bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 12/7/2021, bị cáo Đặng Thanh T kháng cáo xin hưởng án treo hoặc bị xử phạt bằng thời gian bị tạm giam.
Ngày 12/7/2021, bị cáo Nguyễn Hà M kháng cáo xin hưởng án treo hoặc bị xử phạt bằng thời gian bị tạm giam.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án:xác định tội danh, điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo xin được hưởng án treo, các bị cáo Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T kháng cáo xin xử phạt tù bằng với thời gian bị tạm giam hoặc cho hưởng án treo. Xét thấy, các bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ gì mới, bị cáo Nguyễn Văn L là người khởi xướng, đi mua công cụ đánh bạc và là người trực tiếp làm cái, bị cáo Minh có tiền án, bị cáo Tuấn có nhân thân xấu, mức hình phạt cấp sơ thẩm xử phạt là phù hợp, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận.
Các bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội thống nhất như nội dung bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Do đó, có đủ cơ sở xác định: khoảng từ 14 giờ đến 17 giờ 30 phút, ngày 30/4/2020, tại nhà số 44/19, tổ 19, khu phố 5, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Đặng Thanh T, Huỳnh Văn H, Lê Dương L, Nguyễn Hà M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn C và Tống Minh Đ đã thực hiện hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc bầu cua với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 51.600.000 đồng. Do đó, hành vi mà các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi mà các bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo theo tội danh, khung hình phạt và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn L, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo là người khởi xướng rủ rê các bị cáo khác thực hiện hành vi đánh bạc, là người đi mua hai bộ bầu cua và là người trực tiếp đứng ra làm cái cho các con bạc khác đặt cược sát phạt lẫn nhau. Việc cho bị cáo hưởng án treo sẽ ảnh hưởng đến việc phòng chống tội phạm tại địa phương, không đủ sức răn đe giáo dục và phòng ngừa chung, do đó không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[5] Đối với kháng cáo xin hưởng án treo hoặc xử phạt bằng với thời gian bị tạm giam của bị cáo Đặng Thanh T, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 đã bị Tòa án xử phạt tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, năm 2017 bị Tòa án Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc cho bị cáo hưởng án treo sẽ ảnh hưởng đến việc phòng chống tội phạm tại địa phương, không đủ sức răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội, do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội nhất thời, chỉ sử dụng 280.000 đồng để đánh bạc, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là nặng, bị cáo có đủ điều kiện áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự 2015 để hạ khung hình phạt. Do đó, có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[6] Đối với kháng cáo xin hưởng án treo hoặc xử phạt bằng với thời gian bị tạm giam của bị cáo Nguyễn Hà M, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân xấu, năm 2014 đã bị Tòa án xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”; có 01 tiền án: ngày 05/7/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, chấp hành xong ngày 05/01/2020, chưa được xóa án tích, nay phạm tội mới nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[7] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Hà M là phù hợp, đối với bi cáo Đặng Thanh T là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt khác cho phù hợp với tính chất, mức độ hành vi vi phạm của bị cáo Tuấn.
[8] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[9] Án phí hình sự phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Hà Mkhông được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự theo quy định; kháng cáo của bị cáo Tuấn được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, các Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Hà M. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm thẩm số 130/2021/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đối với các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Hà M về hình phạt.
2. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 130/2021/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Đặng Thanh T về hình phạt.
2.1. Về tội danh: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Hà M và Đặng Thanh T phạm tội “Đánh bạc”.
2.2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 01/7/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hà M 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 28/7/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đặng Thanh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, đợc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo từ ngày 30/4/2020 đến ngày 28/7/2020.
3. Án phí hình sự phúc thẩm:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Nguyễn Văn L và Nguyễn Hà M, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Đặng Thanh T không phải nộp.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội đánh bạc số 179/2021/HS-PT
Số hiệu: | 179/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về