TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R G, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 178/2023/HS-ST NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 28 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2023, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thị Bích V, sinh ngày 01/01/1967; Nơi sinh: thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú: Số 69/8/3, đường N V S, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở hiện nay: Hẻm 73, đường Đinh Công Tráng, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 05/10 (biết chữ bình dân học vụ); Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Lê Thị H (đã chết); Có chồng: Nguyễn Văn T, sinh năm 1962; Con: 03 người, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, được tại ngoại cho đến nay.
2. Hồ Thị B, sinh ngày 15/8/1975; Nơi sinh: thành phố C Đ, tỉnh An Giang; Nơi đăng ký thường trú: khóm C L 6, phường V M, thành phố C Đ, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: Số 40, ấp S Đ, xã V H H, huyện C T, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Hồ Văn Q (đã chết) và bà Huỳnh Thị Nh (đã chết); Có chồng: Huỳnh Văn C (đã chết); Con: 02 người, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, được tại ngoại cho đến nay. (Các bị cáo có mặt tại phiên tòa) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Mai Thị Ngọc V, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số 322, đường L L Q, khu phố 4, phường 4, thành phố T N, tỉnh T N. (Vắng mặt).
* Người làm chứng:
+ Bà Đặng Thùy L1, sinh năm 1973; Địa chỉ: Số 69/12/1, đường N V S, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).
+ Bà Huỳnh Thị Mỹ Th1; Địa chỉ: Số 69/10/7A N V S, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 20 phút ngày 06/12/2022, nhận được tin báo của người dân tại nhà của bà Huỳnh Thị Mỹ Th1 tại số 69/10/7A, đường N V S, phường R S, thành phố R G có một số người chơi đánh bài tứ sắc ăn tiền nên Công an phường R S tiến hành kiểm tra thì phát hiện Hồ Thị B có mặt tại đây. Tuy nhiên, B không tham gia chơi đánh bài mà có hành vi mua bán số đề với Nguyễn Thị Bích V trước đó, tại thời điểm Công an kiểm tra không có V tại hiện trường. Công an tiến hành mời B về trụ sở làm việc và thu giữ 02 điện thoại di động của B và V có nội dung mua bán số đề vào ngày 06/12/2022.
Qua điều tra xác định, do muốn thu lợi bất chính nên Nguyễn Thị Bích V đã trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số đề thông qua việc bán trực tiếp, qua điện thoại, tin nhắn SMS từ khoảng đầu tháng 9 năm 2022. V bán số đầu, đuôi, bao lô, xỉu chủ và số đá (xiên) dựa trên kết quả xổ số của các công ty xổ số kiến thiết các đài miền Nam (Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu, Cà Mau), đài miền Bắc (Hà Nội), đài miền Trung (Đà Nẵng) để xác định thắng thua. Cụ thể:
- Đối với số đầu, đuôi, bao lô 02 con thì tỷ lệ trúng là 01 x 80 lần, trong đó số đầu, đuôi trả tiền cược bằng chính số tiền mua, còn bao lô 02 con thì trả tiền cược gấp 15 lần.
- Đối với số bao lô 03 con tỷ lệ trúng là 01 x 600 lần và trả tiền cược gấp 13 lần; số xỉu chủ tỷ lệ trúng là 01 x 600 lần, trả tiền cược gấp 02 lần; số đá (xiên) thì tỷ lệ trúng cũng là 01 x 600, trả tiền cược gấp 30 lần đối với đá 01 đài, 02 đài trả tiền cược gấp 65 lần, còn 03 đài thì trả tiền cược gấp 210 lần.
Mỗi ngày V bán con số thấp nhất là 1.000 đồng và cao nhất là 5.000 đồng. Số tiền bán số đề mỗi ngày từ 1.500.000 đồng đến 8.000.000 đồng, thu lợi được khoảng 5.000.000 đồng (V không xác định được thắng, thua do có ngày lời, ngày lỗ, V lấy tiền tiêu xài, sinh hoạt hàng ngày và cũng không ghi chép lại việc thắng, thua). Khi có người trực tiếp đến mua số đề thì V ghi nội dung đặt cược vào tờ giấy (gọi là lai đề) và đưa cho người mua rồi V ghi nội dung các con số vừa bán vào tờ giấy để lưu lại. Đối với một số người quen thì V mới bán qua điện thoại, có khi người mua nhắn tin cho V, nếu gọi điện thoại thì V sẽ nhắn tin ngược lại cho người mua để xác nhận những số đã mua. V bán số cho một số người gần khu vực nhà trọ V ở và bán dạo cho những người lạ V không biết tên, địa chỉ. V tự bán và trả thưởng cho người mua, không giao lại cho ai hoặc không bán cho ai.
Do quen biết với Hồ Thị B từ trước và đã nhiều lần bán số đề cho B nên vào khoảng 12 giờ ngày 06/12/2022, V gặp B tại nhà của bà Huỳnh Thị Mỹ Th1 tại số 69/10/7A, đường N V S, phường R S. Tại đây, B mua số đề do V bán dưới hình thức bao lô 02 con ở ba đài Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu các con số 23, 32, 69, 96, 11, mỗi con số là 50.000 đồng (tổng cộng 18 lô nhưng V chỉ lấy tiền Bé 15 lô), tổng số tiền B mua số đề là 11.250.000 đồng. Khi bán thì V không ghi lai đề đưa cho B mà nhắn tin SMS trả lời qua điện thoại cho B để xác nhận. Vào lúc 13 giờ 55 phút cùng ngày, V dùng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A03S gắn sim số 0949850X của V nhắn tin SMS qua điện thoại di động Iphone 13Pro Max gắn sim số 0776700X của B với nội dung “Lo 23 32 69 96 11 50n 3d mn” có nghĩa là B mua số đề dưới hình thức bao lô 02 con số các số 23, 32, 69, 96, 11 mỗi con số 50.000 đồng ba đài Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu để phản hồi cho Bé. Do trước đó B mua số đề của V bán nhưng không đưa tiền mà đợi đến khi có kết quả xổ số kiến thiết biết thắng thua mới tính toán tiền với nhau, vì vậy khi bán số đề ngày 06/12/2022 cho B thì V chưa lấy tiền của B. Sau khi bán số cho B xong thì V bỏ đi để quên điện thoại tại nhà bà Th1 sau đó thì bị Công an phường R S kiểm tra, tiến hành mời B về làm việc và thu giữ điện thoại của B, V thì B thừa nhận hành vi mua số đề của V với số tiền là 11.250.000 đồng, chưa có kết quả xổ số. Qua điều tra, xác định trong thời gian mua số đề của V bán thì B thắng (thu lợi) được khoảng 1.200.000 đồng.
Đến ngày 07/12/2022, V đến Công an phường R S đầu thú và thừa nhận hành vi bán số đề cho B với số tiền 11.250.000 đồng vào ngày 06/12/2022. Ngoài ra, V khai nhận vào ngày 06/12/2022 còn trực tiếp bán số đề cho hai người khách lạ (V không xác định được là ai, ở đâu) với số tiền 1.155.000 đồng. Tổng cộng trong ngày 06/12/2022, V đã bán số đề với tổng số tiền 12.405.000 đồng, chưa có kết quả xổ số.
Ngoài ra, qua kiểm tra điện thoại bị thu giữ, xác định được V còn bán số đề bằng cách nhắn tin trao đổi việc mua bán với những số điện thoại như sau: 0968X646, 0942470X, 09177X08, 0948728X. Qua kết quả tra cứu từ các nhà mạng viễn thông cung cấp thông tin chủ các thuê bao điện thoại trên nên Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, làm việc xác định được cụ thể như sau:
- Số điện thoại 0968X646 được V lưu trong danh bạ điện thoại tên “QUY”, qua xác minh xác định được đăng ký bởi chủ thuê bao tên Trần Châu Ngọc Quý, sinh năm 1992, con ruột của bà Châu Thị Mai, địa chỉ số 69/10/2, đường N V S, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. Ngày 05/12/2022, Quý có nhắn tin với V nội dung “Lô 06, 15- 100n bl vt 300n btr” và “Bỏ tin đó nha dì tư ơi. Ngta ko mua nữa”. Qua xác minh tại địa phương và bà Mai cung cấp thông tin Quý đã ra sinh sống tại Hà Nội, hiện không có mặt tại địa phương nên không làm việc được. Tuy nhiên, qua làm việc với V thì V khai nhận Quý đã nhắn tin mua số đề của V nhưng V chưa kịp xác nhận có nhận bán những số đó cho Quý hay không thì Quý đã nhắn tin phản hồi lại V là không mua nữa. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G không xem xét xử lý đối với hành vi của Trần Châu Ngọc Quý là phù hợp.
- Số điện thoại 0942470X được V lưu trong danh bạ điện thoại tên “PHUONG ANH 1”: vào ngày 07/9/2022 có mua số đề do V bán các con số 01, 10, 99 bao lô đài Đà Nẵng mỗi con số 1.000 đồng, đá 1.000 đồng và V nhắn tin qua số điện thoại trên để xác nhận đồng ý bán với nội dung “01.10.99 lô 2ng, đá 1ng. Đ Nẵng”, V không biết người này ở đâu, tên gì và sau đó thì người này không còn mua số đề do V bán nữa. Đến ngày 06/12/2022 thì Bé và 02 người khách lạ mua số đề của V (tổng số tiền là 12.405.000 đồng), sau đó V nhắn tin với nội dung “Lo 23 32 69 96 11 50n 3d mn”, “A 33 10n lo 33 11 2n 3đ”, “Lo 39 10n 739 5n xchu 50n 3đ mn” định gửi qua số máy của chính V để lưu lại nhưng V lại gửi nhầm cho số điện thoại 0942470X tên “PHUONG ANH 1”, thực tế “PHUONG ANH 1” không có mua số đề do V bán và cũng không phải là V giao số đề cho người này. Qua kết quả tra cứu xác định được số điện thoại trên được đăng ký bởi chủ thuê bao tên Mai Thị Ngọc V, sinh năm 1986, địa chỉ số 322, đường L L Q, khu phố 4, phường 4, thành phố T N, tỉnh T N. Qua làm việc xác định được V làm việc tại Trung tâm Vinaphone quận H M, thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình làm việc hàng ngày thì do cần giữ số thuê bao để không bị hủy khi đến hạn nên V đã lấy thông tin của mình để đăng ký cho thuê bao nói trên nhưng khi V bán sim điện thoại nói trên cho khách hàng thì đại lý bán đã không cập nhật lại thông tin khách hàng chính chủ nên sim đã bán đi cho khách hàng vẫn còn mang tên, địa chỉ của V, thực tế V không sử dụng sim số 0942470X để thực hiện việc mua bán số đề với V. Do đó, cũng chưa biết được ai đã mua và sử dụng sim số nói trên. Qua kiểm tra hệ thống thì sim số 0942470X khách hàng không sử dụng nữa nên đã bị hủy vào ngày 22/02/2023. Hiện chưa xác định được ai là người đã sử dụng sim số 0942470X để mua số đề do bị can V bán nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
- Số điện thoại 09177X08 được V lưu trong danh bạ điện thoại tên “LY” (V chỉ quen biết qua số điện thoại, không biết tên, địa chỉ ở đâu), vào ngày 05/12/2022 có nhắn tin cho V với nội dung “90. 69. 09. lô 3ng. đá 1ng C mau”, V nhắn lại “OK” có nghĩa là mua số đề dưới hình thức số bao lô các số 90, 69, 09 mỗi con số 3.000 đồng đài Cà Mau, số đá đối với ba con số 90, 69, 09 đài Cà Mau với tổng số tiền phải trả cho V là 225.000 đồng (trong đó số bao lô là 135.000 đồng, số đá là 90.000 đồng). Sau đó, “LY” tiếp tục nhắn tin cho V nội dung “58.85 đá xiên 1ng 2 đài MT”, V nhắn lại “OK”, nghĩa là mua số đá xiên 58, 85 đài Miền Trung mỗi con số 1.000 đồng, với số tiền phải trả V là 70.000 đồng. Tổng cộng, trong ngày 05/12/2022 “LY” đã mua số đề do V bán với tổng số tiền là 295.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số thì “Ly” trúng được con số bao lô 90 đài Cà Mau với số tiền 240.000 đồng, do vậy “LY” bị thua lỗ 55.000 đồng nên V đã nhắn tin lại với nội dung “lo55” nghĩa là “LY” lỗ 55.000 đồng, “LY” đã trả đủ số tiền 55.000 đồng cho V. Qua kết quả tra cứu xác định được số điện thoại trên được đăng ký bởi chủ thuê bao tên Lê Ngọc L, sinh năm 1973, có địa chỉ tại ấp T Đ, xã G T, huyện C T, tỉnh Kiên Giang nhưng qua xác minh được địa phương cung cấp thông tin thì Lê Ngọc L2 tuy có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên nhưng không thực tế cư trú tại đây, do đó Cơ quan điều tra không thể mời làm việc được. Qua đó, chưa có căn cứ xác định ai là người sử dụng sim số 09177X08 để nhắn tin mua bán số đề với bị cáo V. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G tiếp tục điều tra, xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
- Số điện thoại 0948728X được V lưu trong danh bạ điện thoại tên “LINH MY”, được đăng ký bởi chủ thuê bao tên Đặng Thùy L1, sinh năm 1973, địa chỉ số 69/12/1, đường N V S, phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. Qua làm việc L1 khai nhận vào ngày 05/12/2022 L1 có nhắn tin với V nội dung “68.86 đá 1n HN”, nghĩa là L1 mua số đá 68, 86 đài Hà Nội số tiền 1.000 đồng, tổng số tiền mua số đề Linh trả cho V là 50.000 đồng, kết quả mở thưởng L1 không trúng. Qua tra cứu xác định L1 không có tiền án, tiền sự có liên quan đến các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và không thực hiện hành vi phạm tội tội nào khác nên không cấu thành tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm, đề xuất chuyển xử lý hành chính là phù hợp.
Ngày 12/12/2022, Nguyễn Thị Bích V, Hồ Thị B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G khởi tố bị can và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.
Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi phạm tội; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo Bé tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính.
* Vật chứng thu được:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A03S, số máy SM-A037F/DS, số seri R9PT41HXZZV, Imei (khe 1): 35845298481X5, Imei (khe 2): 35948842481X6, gắn sim số 0949850X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn thể hiện nội dung mua bán số đề giữa V và Bé (do Huỳnh Thị Mỹ Th1 giao nộp);
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, số máy MLL93VN/A, số seri QQLX2F749W, số Imei: 358863668270589, gắn sim số 0776700X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn thể hiện nội dung mua bán số đề giữa V và Bé (do Hồ Thị B giao nộp);
Tại bản Cáo trạng số: 109/CT-VKSRG ngày 15/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B về tội: “Đánh Bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích V mức án 24 (hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Hồ Thị B mức án 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.
* Về vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Đề nghị tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước đồ vật các bị cáo V, Bé dùng để phạm tội:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A03S, số máy SM-A037F/DS, số seri R9PT41HXZZV, Imei (khe 1): 35845298481X5, Imei (khe 2):
35948842481X6, gắn sim số 0949850X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn thể hiện nội dung mua bán số đề giữa V và Bé;
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, số máy MLL93VN/A, số seri QQLX2F749W, số Imei: 358863668270589, gắn sim số 0776700X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn nội dung mua bán số đề giữa V và Bé.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 78/QĐ-VKS, ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 6.260.000 đồng do bị cáo Nguyễn Thị Bích V giao nộp là số tiền thu lợi bất chính từ việc bán số đề của những ngày trước đó theo biên lai thu tiền số 0007391 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 1.200.000 đồng do bị cáo Hồ Thị B giao nộp số tiền thu lợi có được từ việc đánh bạc theo biên lai thu tiền số 0007392 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
+ Đối với số tiền 11.250.000 đồng mà bị cáo Bé đã mua số đề do bị cáo V bán vào ngày 06/12/2022, do Bé chưa trả tiền cho V nên không buộc phải giao nộp.
Tạ i phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G đã truy tố. Các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và không có ý kiến gì khác.
Tại phần nói lời sau cùng, các bị cáo trình bày: Bị cáo đã nhận biết được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, xin được hưởng mức án cải tạo không giam giữ để lao động, phụ giúp gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố R G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ và tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra; biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, đầu thú; tài liệu, đồ vật thu giữ trực tiếp; lời khai nhận của những người chứng kiến; nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: Do muốn có tiền để tiêu xài nên từ đầu tháng 9 năm 2022 Nguyễn Thị Bích V đã trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số đề với các loại số đầu, đuôi, bao lô, xỉu chủ và số đá dựa trên kết quả xổ số của các công ty xổ số kiến thiết các đài miền Nam (Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu, Cà Mau), đài miền Bắc (Hà Nội), đài miền Trung (Đà Nẵng) để xác định thắng thua. Nguyễn Thị Bích V thực hiện hành vi bán số đề thông qua việc bán trực tiếp, qua điện thoại, tin nhắn SMS, Zalo cho những người ở những khu vực xung quanh đến mua số đề. V bán số đề ăn thua trực tiếp với người chơi đề chứ không giao phơi đề lại cho người khác. Vào ngày 06/12/2022, V đã bán số đề cho Hồ Thị B với số tiền 11.250.000 đồng và bán trực tiếp cho hai người khác (chưa xác định được họ tên thật và địa chỉ) với số tiền 1.155.000 đồng. Tổng cộng trong ngày 06/12/2022, V đã bán số đề với tổng số tiền 12.405.000 đồng, bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng. Đối với Hồ Thị B mua số đề do V bán vào ngày 06/12/2022 với số tiền là 11.250.000 đồng, Do đó, hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự như kết luận của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, được ăn thua bằng tiền mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và thu lợi bất chính một cách nhanh chóng mà các bị cáo đã bất chấp những quy định của pháp luật và hậu quả xảy ra để thực hiện bằng được hành vi phạm tội; hành vi đánh bạc của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội, gây mất an ninh tại địa phương và là một trong những nguyên nhân gây phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, làm tăng thêm sự phức tạp về tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ được áp dụng theo quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, các bị cáo V và Bé đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về nhân thân: các bị cáo đều là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.
[5] Sau khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của xã hội cho hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Xét thấy, các bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 và có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, không cần thiết phải cách ly 02 bị cáo khỏi đời sống xã hội mà giao về cho gia đình và chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ răn đe, tạo điều kiện cho các bị cáo được cải tạo, sửa đổi thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.
[6] Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát thành phố R G về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ thể hiện các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[8] Đối với chủ thuê bao số điện thoại 0942470X, bị cáo V lưu trong danh bạ điện thoại tên “PHUONG ANH 1”; Số điện thoại 09177X08 được V lưu trong danh bạ điện thoại tên “LY”, có hành vi nhắn tin cho V để mua số đề. Quá trình điều tra, xác minh chưa xác định được ai là người đã sử dụng các sim số nêu trên để nhắn tin mua số đề của V. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G tiếp tục điều tra, xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau, HĐXX miễn xét.
Đối với, Đặng Thùy L1 có hành vi mua số đề của bị cáo V. Do hành vi đã thực hiện không đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc. Do đó, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm và chuyển xử lý hành chính là phù hợp, HĐXX miễn xét.
Đối với, Trần Châu Ngọc Q là chủ thuê bao số điện thoại 0968X646, có hành vi nhắn tin mua số đề của V. Quá trình điều tra đã xác định Q đã nhắn tin phản hồi lại V là không mua nữa. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G không xem xét xử lý đối với hành vi của Trần Châu Ngọc Q là phù hợp, HĐXX miễn xét.
Đối với 02 người khách lạ, vào ngày 06/12/2022 đã trực tiếp mua số đề của Nguyễn Thị Bích V với số tiền 1.155.000 đồng. Quá trình điều tra, xác minh chưa xác định được họ tên thật và địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G tiếp tục điều tra, xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau, HĐXX miễn xét.
[9] Về các vấn đề khác:
* Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A03S, số máy SM-A037F/DS, số seri R9PT41HXZZV, Imei (khe 1): 35845298481X5, Imei (khe 2): 35948842481X6, gắn sim số 0949850X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn thể hiện nội dung mua bán số đề giữa V và B;
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, số máy MLL93VN/A, số seri QQLX2F749W, số Imei: 358863668270589, gắn sim số 0776700X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn nội dung mua bán số đề giữa V và B.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 78/QĐ-VKS, ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 6.260.000 đồng do bị cáo Nguyễn Thị Bích V giao nộp là số tiền thu lợi bất chính từ việc bán số đề của những ngày trước đó theo biên lai thu tiền số 0007391 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 1.200.000 đồng do bị cáo Hồ Thị B giao nộp số tiền thu lợi có được từ việc đánh bạc theo biên lai thu tiền số 0007392 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
+ Đối với số tiền 11.250.000 đồng mà bị cáo B đã mua số đề do bị cáo V bán vào ngày 06/12/2022, do B chưa trả tiền cho V nên không buộc phải giao nộp.
* Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo V và B, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B phạm tội “Đánh bạc”.
+ Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích V 24 (hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập cá nhân do bị cáo không nghề nghiệp và không có nguồn thu nhập ổn định.
Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy Ban nhân dân phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Thị Bích V cho Ủy Ban nhân dân phường R S, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
+ Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạ t: Bị cáo Hồ Thị B 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập cá nhân do bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định.
Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy Ban nhân dân xã V H H, huyện C T, tỉnh Kiên Giang nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Hồ Thị B cho Ủy Ban nhân dân xã V H H, huyện C T, tỉnh Kiên Giang và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.
2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A03S, số máy SM-A037F/DS, số seri R9PT41HXZZV, Imei (khe 1): 35845298481X5, Imei (khe 2):
35948842481X6, gắn sim số 0949850X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn thể hiện nội dung mua bán số đề giữa V và Bé; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, số máy MLL93VN/A, số seri QQLX2F749W, số Imei: 358863668270589, gắn sim số 0776700X, đã qua sử dụng bên trong có chứa tin nhắn nội dung mua bán số đề giữa V và Bé. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 78/QĐ-VKS, ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 6.260.000 đồng do bị cáo Nguyễn Thị Bích V giao nộp là số tiền thu lợi bất chính từ việc bán số đề của những ngày trước đó theo biên lai thu tiền số 0007391 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
+ Tiền Việt Nam 1.200.000 đồng do bị cáo Hồ Thị B giao nộp là số tiền thu lợi có được từ việc đánh bạc, theo biên lai thu tiền số 0007392 ngày 17/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R G.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 6, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Nguyễn Thị Bích V và Hồ Thị B mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014”.
Bản án về tội đánh bạc số 178/2023/HS-ST
Số hiệu: | 178/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về