Bản án về tội đánh bạc số 17/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 175/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST–HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh T, sinh năm 1985, tại Đ; nơi cư trú: Ấp B C, xã P X, huyện P, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn):

5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1950 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1954; vợ: Hồ Thanh H, sinh năm 1987; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 09/9/2023 đến ngày 18/9/2023. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

2. Trần Thanh Q, sinh năm 1995, tại Đ; nơi cư trú: Ấp B C, xã P X, huyện P, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn):

9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần P, sinh năm 1971 và bà Trần Thị V, sinh năm 1974; vợ, con, tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ từ ngày 09/9/2023 đến ngày 18/9/2023. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh T, Trần Thanh Q có quen biết với nhau. Vào ngày 14/5/2023, Nguyễn Minh T và Trần Thanh Q thực hiện hành vi đánh bạc trái phép với hình thức cá độ kết quả trận đấu thắng thua, tỷ số, số bàn thắng thua giữa 2 đội bóng trong giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Bóng đá Đức (Bundesliga). Các hình thức cá độ gồm cá đội nào thắng, số bàn thắng thua (tài – xỉu). Dựa trên kết quả thắng thua, số bàn thắng, T và Q thỏa thuận với nhau về số tiền mà người thắng sẽ được nhận từ người thua, có thể thắng hết số tiền cược hoặc thắng từ 80% đến 90% số tiền cược. Số tiền đánh bạc ở các trận đấu cụ thể của T và Q như sau:

Trận Arsennal và Brighton, T sử dụng 5.000.000 đồng, Q sử dụng 5.000.000 đồng để cá độ. Trận này, T thắng số tiền 5.000.000 đồng. Như vậy, số tiền đánh bạc ở trận đấu này của T là 10.000.000 đồng, Q là 5.000.000 đồng. Q đã trả tiền thắng thua cho T.

Trận Leipzing và Werder Bremen, T sử dụng 5.000.000 đồng, Q sử dụng 5.000.000 đồng để cá độ. Trận này, T thắng số tiền 5.000.000 đồng. Như vậy, số tiền đánh bạc ở trận đấu này của T là 10.000.000 đồng, Q là 5.000.000 đồng. Q đã trả tiền thắng thua cho T.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định vào ngày 14/5/2023, Nguyễn Minh T thực hiện hành vi đánh bạc trái phép 02 lần với số tiền 20.000.000 đồng và Trần Thanh Q thực hiện hành vi đánh bạc trái phép 02 lần với số tiền 10.000.000 đồng.

Hồi 19 giờ ngày 09/9/2023, Trần Thanh Q đến Cơ quan CSĐT Công an huyện P tự thú.

Cáo trạng số 173/CT-VKSTP-ĐN ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố các bị cáo Nguyễn Minh T và Trần Thanh Q về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Trên cơ sở phân tích dấu hiệu phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

- Về tội danh: Các bị cáo Nguyễn Minh T và Trần Thanh Q phạm tội “Đánh bạc”.

- Về mức hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Q, xử phạt:

Nguyễn Minh T từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;

Trần Thanh Q từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công: Số tiền 10.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc đánh bạc trái phép của Nguyễn Minh T do Q trả tiền thua độ, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu hồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bàn phím màu đen là công cụ và phương tiện phạm tội.

Buộc bị cáo T nộp lại số tiền 10.000.000 đồng được sử dụng vào mục đích đánh bạc với bị cáo Q để sung công quỹ nhà nước.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng:

- Các bị cáo thừa nhận nội dung của Bản cáo trạng là đúng sự thật; các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, các bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự:

[2.1]. Xét về hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được đưa ra x em xét tại phiên tòa, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Vào ngày 14/5/2023, tại ấp B C, xã P X, huyện P, tỉnh Đ, Trần Thanh Q và Nguyễn Minh T 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc trái phép với nhau, dưới hình thức cá độ bóng đá với số tiền cụ thể, mỗi lần là: Nguyễn Minh T sử dụng 10.000.000 đồng và Trần Thanh Q sử dụng 5.000.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Minh T, Trần Thanh Q thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3.2]. Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng và hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, mà còn gây bất bình trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương và là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các tội phạm khác. Vì vậy để giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội phải xét xử và áp dụng cho các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành.

[3.3]. Về tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo có tình tiết tặng nặng Phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); bị cáo Trần Thanh Q được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ: Tự thú theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử cân nhắc để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

Từ nội dung đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử cân nhắc, quyết định mức án phù hợp đối với từng bị cáo, vừa thể hiện sự nghiêm minh và sự khoan hồng của chính sách pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bàn phím màu đen, số tiền 10.000.000 đồng các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc đây là khoản tiền và công cụ sử dụng vào việc phạm tội là đúng pháp luật;

[5] Về vấn đề khác: Buộc bị cáo T phải nộp lại số tiền 10.000.000 đồng được sử dụng đánh bạc với bị cáo Q nên buộc bị cáo phải nộp lại để sung công quỹ nhà nước là đúng pháp luật.

[6] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo và đề nghị hình phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận nhưng mức hình phạt có phần chưa nghiêm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 35, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Nguyễn Minh T và Trần Thanh Q; áp dụng thêm điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo Q.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Minh T và Trần Thanh Q, phạm tội: “Đánh bạc”, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Minh T mức phạt tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng).

- Bị cáo Trần Thanh Q mức phạt tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) của bị cáo Nguyễn Minh T thu lợi bất chính (Theo Lệnh thanh toán ngày 12/12/2023 tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P và Chi cục THADS huyện P).

- Tịch thu phát mãi sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu hồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia bàn phím màu đen.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/12/2023 giữa Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Đ).

- Buộc bị cáo Nguyễn Minh T nộp lại 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sử dụng vào mục đích phạm tội.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về