Bản án về tội đánh bạc số 168/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 168/2022/HS-ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn thụ lý số: 168/2022/HSST ngày 14 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 180/2022/HSST-QĐ ngày 22 tháng 12 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Lưu Đức A, sinh ngày 28/10/1988 tại V; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh V; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Xuân B và bà Nguyễn Thị Kim H; vợ: Phạm Thị Hồng H, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

2. Nguyễn Hồng P, sinh ngày 12/12/1997 tại V; nơi cư trú: Tổ dân phố V, thị trấn B, huyện B, tỉnh V; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị V; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P là lái xe của Công ty TNHH InterFlex Vina, địa chỉ: KCN Bá Thiện, huyện B, tỉnh V. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 17/11/2022, sau khi tan làm P và Đức A ngồi uống nước ở gần cổng Khu công nghiệp Bá Thiện, huyện B, tỉnh V. Tại đây, Đức Anh rủ Phú đến quán bi-a V, địa chỉ: TDP. Trại Cúp, TT. Bá Hiến, huyện B, tỉnh V để đánh bạc dưới hình thức chơi bi-a được thua bằng tiền thì Phú đồng ý. Đức A và P đi bộ đến quán bi-a V gặp chủ quán là chị Bùi Thị N, Đức A hỏi thuê của chị N thuê 01 bàn để chơi bi-a thì chị N đồng ý. Sau đó, chị N đi sang quán bên cạnh để làm móng tay nên không biết P và Đức A thuê bàn bi – a để đánh bạc. Lúc này, P và Đức A thống nhất cách thức đánh bạc như sau: Mỗi người chơi sử dụng 01 gậy bi-a chọc bóng màu trắng (bi cái) vào các bóng được đánh số thứ tự từ 1 đến 15 để bóng rơi vào các lỗ trên mặt bàn, nếu chọc quả bóng đánh số 15 vào lỗ thì kết thúc ván chơi tức thắng của người còn lại số tiền 100.000 đồng; đối với các quả bóng còn lại đánh số từ số 1 đến 14, nếu người chơi chọc vào 1 trong 2 lỗ ở giữa chiều dài của bàn (lỗ 10) thì thắng của người còn lại số tiền 50.000 đồng, nếu chọc vào lỗ còn lại thì tiếp tục chơi. Kết thúc mỗi ván chơi, P và Đức A lấy tiền trong ví ra để thanh toán với nhau. Khi đánh bạc, P mang theo số tiền 4.860.000 đồng, Đức A đem theo số tiền 6.320.000 đồng đều được sử dụng toàn bộ vào mục đích đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc liên tục đến hồi 10 giờ 45 cùng ngày thì bị Công an huyện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng, bao gồm:

- Thu giữ trên người Nguyễn Hồng P: 01 ví giả da màu đen bên trong có số tiền 4.760.000 đồng.

- Thu giữ trên người Lưu Đức A: 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 6.420.000 đồng Thu giữ tại quán bi-a V: 01 bàn bi-a màu trắng, mặt bàn nỉ màu xanh, kích thước mặt bàn 290cm x 160cm, chiều cao 85cm; 02 gậy bi-a cùng đặc điểm là gậy gỗ, thân tròn, chiều dài 150cm; 16 bóng bi-a gồm 01 bóng màu trắng, 15 bóng được đánh số từ 1 đến 15.

Về vật chứng vụ án:

Toàn bộ số tiền 11.180.000 đồng thu giữ trên người các đối tượng bạc, đã làm rõ là sử dụng để đánh bạc cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 ví giả da màu đen là tài sản của Nguyễn Hồng P, 01 ví giả da màu nâu là tài sản của Lưu Đức A, không liên quan đến phạm tội cần trả lại cho các bị can.

Đối với bàn bi-a màu trắng, 02 gậy bi-a và 16 bóng bi-a qua điều tra xác định là tài sản của chị Bùi Thị N, chị N không biết việc các bị cáo thuê bàn bi –a để đánh bạc, nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị N là phù hợp.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 02/CT-VKSBX ngày 13/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V truy tố các bị cáo Lưu Đức A, Nguyễn Hồng P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Đức A, Nguyễn Hồng P khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lưu Đức A từ 10 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 8 tháng đến 02 năm; khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng P từ 08 tháng đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 04 tháng đến 01năm 08 tháng.

Áp dụng khoản 3 Điều 321 của Bộ Luật Hình sự, phạt bổ sung mỗi bị cáo 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, rất ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt nhẹ nhất đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tình tiết khách quan đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đúng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 10h ngày 17/11/2022 tại quán bi-a V, địa chỉ: TDP. Trại Cúp, TT. Bá Hiến, huyện B, tỉnh V, Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P đã có hành vi đánh bạc sát phạt với nhau bằng tiền với hình thức đánh bi a. Cụ thể mỗi người chơi sử dụng 01 gậy bi-a chọc bóng màu trắng (bi cái) vào các bóng được đánh số thứ tự từ 1 đến 15 để bóng rơi vào các lỗ trên mặt bàn, nếu chọc quả bóng đánh số 15 vào lỗ thì kết thúc ván chơi tức thắng của người còn lại số tiền 100.000 đồng; đối với các quả bóng còn lại đánh số từ số 1 đến 14, nếu người chơi chọc vào 1 trong 2 lỗ ở giữa chiều dài của bàn (lỗ 10) thì thắng của người còn lại số tiền 50.000 đồng, nếu chọc vào lỗ còn lại thì tiếp tục chơi. Kết thúc mỗi ván chơi, P và Đức A lấy tiền trong ví ra để thanh toán với nhau. Tổng số tiền mà Đức Anh và Phú đánh bạc với nhau là 11.180.000 đồng.

Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt mà điều luật quy định phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng. Các bị cáo đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền thông qua việc đánh bi- a, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Trong vụ án này, Lưu Đức A là người khởi sướng, Nguyễn Hồng P là người tham gia tích cực. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo một mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo nhận thấy: Cả hai bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cả hai bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, không cần bắt các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, cho các bị cáo hưởng án treo ấn định thời gian thử thách, giao cho Ủy ban nhân dân nơi cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ sức răn đe, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định các bị cáo có nghề nghiệp (lái xe), có thu nhập ổn định nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]Về vật chứng vụ án:

Đối với số tiền 11.180.000 đồng là số tiền cả hai dùng để đánh bạc với nhau cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 ví giả da màu đen của Nguyễn Hồng P và 01 ví giả da màu nâu của Lưu Đức A không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho các bị cáo.

[7] Vê án phí: Các bi cao phai chiu án phí hình sự sơ thẩm theo quy đinh cua pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P phạm tội “Đánh bạc”.

1. Căn cứ khoản 1Điều 321, điểm i, s khoản 1Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Lưu Đức A 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 08 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

2. Căn cứ khoản 1Điều 321, điểm i, s khoản 1Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Hồng P 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 04 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lưu Đức A cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh V giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Giao bị cáo Nguyễn Hồng P cho Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh V giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự: Phạt Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P mỗi bị cáo 10.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 11.180.000 đồng là tiền dùng vào việc phạm tội;

Trả lại cho Lưu Đức A 01 chiếc ví màu nâu và Nguyễn Hồng P 01 chiếc ví màu đen.

(Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 21/12/2022)

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Lưu Đức A và Nguyễn Hồng P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 168/2022/HS-ST

Số hiệu:168/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về