TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 163/2024/HS-ST NGÀY 05/09/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2024/TLST-HS ngày 14/8/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2024/QĐXXST-HS ngày 22/8/2024 đối với bị cáo:
Phạm Thị Minh H, sinh ngày 03/10/1966 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 157 H, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Tổ 2 xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn M và bà Nguyễn Thị H; không xác định được thông tin về chồng và có 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 15/02/2024, Chủ tịch UBND xã An Đồng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 30 phút ngày 20/5/2024, Công an xã An Đồng phát hiện bắt quả tang tại đường bờ mương thuộc tổ 2 An Trang, xã An Đồng, huyện An Dương có 04 người đánh bạc được thua bằng tiền gồm: Phạm Thị Minh H; Đỗ Thị B, sinh năm 1980; Lưu Quốc N, sinh năm 1976 và Phan Văn T, sinh năm 1989 đều trú tại cụm dân cư An Trang, xã An Đồng. Cơ quan Công an đã lập B bản vụ việc, thu giữ vật chứng 01 bộ T lơ khơ gồm 52 quân bài và 1.150.000 đồng. Ngày 29/5/2024, Ủy ban nhân dân xã An Đồng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đỗ Thị B, Lưu Quốc N và Phan Văn T; quyết định tịch thu nộp ngân sách 1.150.000 đồng và tiêu hủy bộ bài T lơ khơ.
Trong quá trình lập hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, xác định được ngày 15/02/2024 Phạm Thị Minh H đã bị xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền về hành vi đánh bạc nên vụ việc được chuyển giao cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, Phạm Thị Minh H và những người liên quan khai nhận: Khoảng hơn 14 giờ ngày 20/5/2024, H và Đỗ Thị B, Lưu Quốc N, Phan Văn T cùng rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền bằng hình thức đánh lốc tại đường bờ mương thuộc cụm dân cư An Trang, xã An Đồng. H có 100.000 đồng, N có 150.000 đồng, B có 300.000 đồng, T có 600.000 đồng để đánh bạc. Cả nhóm chơi đến 16 giờ 30 phút thì bị Công an xã An Đồng phát hiện bắt giữ cùng vật chứng liên quan.
Vật chứng của vụ án: 01 bộ T lơ khơ gồm 52 quân bài và 1.150.000 đồng đã được xử lý tại Quyết định số 06 ngày 29/5/2024 của Ủy ban nhân dân xã An Đồng.
Tại phiên tòa: Bị cáo trình bày thống nhất về hành vi như đã nêu trên, không có ý kiến hay khiếu nại gì.
Bản Cáo trạng số 176/2024/CT-VKS ngày 14/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố bị cáo Phạm Thị Minh H về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt Phạm Thị Minh H từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được cải tạo ngoài xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Hành vi vào ngày 20/5/2024, tại đường bờ mương thuộc cụm dân cư An Trang, xã An Đồng, huyện An Dương, Phạm Thị Minh H cùng Đỗ Thị B, Lưu Quốc N và Phan Văn T đánh bạc bằng hình thức đánh lốc được thua bằng tiền với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 1.150.000 đồng. Số tiền này dưới mức tối thiểu là 5.000.000 đồng được quy định tại Điều luật nhưng ngày 15/02/2024 Phạm Thị Minh H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nên hành vi của bị cáo đã phạm tội Đánh bạc vi phạm khoản 1 Điều 321 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội được loại trừ.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự và nhân thân: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[4] Về hình phạt: Bị cáo có Nều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và có khả năng tự cải tạo mà không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên xem xét cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Áp dụng Điều 36 của BLHS xử bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ và xử phạt bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Do bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên miễn việc khấu trừ thu nhập. Trường hợp bị cáo không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng. Thời điểm bắt đầu chấp hành án được tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Bị cáo không bị giam giữ, tạm giam nên không quy đổi để trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cho bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của BLHS.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 3 Điều 321 của BLHS.
[6] Vật chứng của vụ án: Đã được giải quyết xong tại Quyết định số 06 ngày 29/5/2024 của Ủy ban nhân dân xã An Đồng.
[7] Về những vấn đề khác: Vụ án không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối với hành vi của Đỗ Thị B, Lưu Quốc N và Phan Văn T do vi phạm lần đầu, số tiền chưa đủ để cấu cấu thành tội Đánh bạc nên ngày 29/5/2024 Ủy ban nhân dân xã An Đồng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp pháp luật. Do Tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nên hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị Minh H phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Minh H 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án được tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án.
Miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Phạm Thị Minh H. Giao bị cáo Phạm Thị Minh H cho Ủy ban nhân dân xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách Nệm phối hợp với Ủy ban nhân xã An Đồng, huyện An Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp bị cáo Phạm Thị Minh H không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo Điều 100 Luật Thi hành án hình sự như sau:
1. Người chấp hành án có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 30 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian chấp hành án, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
2. Người chấp hành án khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người chấp hành án khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người chấp hành án vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
3. Việc giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật Thi hành án hình sự.
4. Người chấp hành án không được xuất cảnh trong thời gian chấp hành án.
Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Phạm Thị Minh H.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Phạm Thị Minh H phải chịu 200.000 đồng.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 163/2024/HS-ST
Số hiệu: | 163/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về