Bản án về tội đánh bạc số 16/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị G; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày 15 tháng 12 năm 1977 tại huyện N, tỉnh N; Nơi cư trú: khối H, phường N, thị xã C, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nguyễn Thanh B và bà Mai Thị T; Chồng: Nguyễn Ngọc H và có 02 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2021/HS-ST ngày 17 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xử phạt 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 tháng về tội “Đánh bạc”. Đã chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 17 tháng 8 năm 2023.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 27 tháng 12 năm 2023 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Mai Thị H, sinh năm 1969 - Ông Lê Văn L, sinh năm 1962 Đều cư trú tại: xóm X, xã N, huyện N, tỉnh N. Đều vắng mặt.

- Ông Võ Nhật M, sinh năm 1989 Nơi cư trú: xóm T, xã N, huyện N, tỉnh N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15 tháng 12 năm 2023, Nguyễn Thị G đến nhà Mai Thị H ở xóm X, xã N, huyện N, tỉnh N để dự đám giỗ. Tại đây, G gặp Mai Thị H, Lê Văn L, Võ Nhật M cùng ngồi uống nước và thấy trên bàn có sẵn 01 bộ bài Túlơ khơ nên cả bốn người rủ nhau đánh bài ăn tiền bằng hình thức đánh “phỏm”, ù 60.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi G, L, M và H đang đánh bạc thì bị Công an xã N, huyện N phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng) và 01 (một) bộ bài Túlơ khơ có 52 quân bài.

Hình thức đánh bài “phỏm” được quy ước như sau: Mỗi người chơi được chia đều 9 quân bài, riêng người đánh đầu tiên được chia 10 quân bài. Số quân bài còn lại để dưới chiếu gọi là “bào cọc”. Người có 10 quân bài được quyền đánh trước. Người tiếp theo có thể nhận quân bài của người vừa đánh ra hoặc nhận một quân bài khác trong số “bài cọc” để tạo thành “phỏm”, sau đó lựa chọn một quân bài bất kỳ trong số quân bài của mình và đánh một quân bài sang người ngồi kế tiếp. Khi số bài cọc còn lại 04 quân bài, thì tiến hành “hạ bài”. Hạ bài là bỏ đi những quân bài đã ghép thành “phỏm”, “phỏm” là có từ 03 quân bài trở lên trùng nhau hoặc liền kề nhau cùng loại, ví dụ có 03 hoặc 04 quân 2; hoặc có 03 quân 2 cơ, 3 cơ, 4 cơ….Nếu bài không có “phỏm” thì gọi là “cháy”. Sau khi hạ bài, những người tham gia đánh bài cộng số điểm của các quân bài còn lại . Điểm quân bài được quy định như sau: Từ quân 2 đến quân 10 thì số điểm tương ứng với số quân bài; quân A có số điểm là 01; quân J có số điểm 11; quân Q có số điểm 12; quân K có số điểm 13. Người có tổng số điểm của các quân bài thấp nhất là người thắng. Nếu có cùng số diểm thì người nào “hạ bài” trước theo thứ tự là người thắng. Người bị “cháy” không được tính điểm. Người có tổng số điểm bằng 0 (tất cả các quân bài đều ghép thành “phỏm”) thì gọi là “ù” có thể diễn ra bất kỳ thời điểm nào trong quá trình chơi. Tỷ lệ thắng thua được quy định là: người về thứ hai phải trả cho người thắng là 10.000 đồng, người về thứ ba phải trả cho người thắng 20.000 đồng, người về thứ tư phải trả người thắng là 30.000 đồng. Còn người nào bị “cháy” thì phải trả cho người thắng 40.000 đồng. Người nào “ù” thì 03 người chơi còn lại phải trả cho người có bài “ù” mỗi người 60.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định tổng số tiền bị cáo và các đối tượng dùng để đánh bạc là 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng). Trong đó số tiền dùng đánh bạc của từng người như sau: Nguyễn Thị G 660.000 đồng, Lê Văn L 200.000 đồng, Võ Nhật M 330.000 đồng và Mai Thị H 720.000 đồng. Mặc dù số tiền dùng đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nhưng ngày 17 tháng 8 năm 2021, bị cáo Nguyễn Thị G đã bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xử phạt 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 tháng về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 17 tháng 8 năm 2023 là thuộc trường hợp chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên phải chịu yếu tố định tội theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đối với các đối tượng Lê Văn L, Võ Nhật M và Mai Thị H đều chưa bị xử phạt vi phạm phạm hành chính hoặc bị kết án về hành vi, tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc nên Công an huyện N, tỉnh N xử phạt vi phạm hành chính.

Tại bản kết luận giám định số 22/KLKTHS (Đ3-TL) ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: "Số tiền 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng) gửi đến giám định đều là tiền thật”.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS-NL ngày 23 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh N đã truy tố Nguyễn Thị G về tội, “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh N thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị G phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thị G từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc phạm tội là 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng);

- Tịch thu tiêu hủy công cụ phạm tội gồm: 01 (một) bộ bài Tú lơ khơ có 52 quân bài.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng.

Lời nói sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên;

Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng truy tố, ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án...được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 15 tháng 12 năm 2023, tại nhà của Mai Thị H ở xóm X, xã N, huyện N, tỉnh N, bị cáo Nguyễn Thị G cùng với các đối tượng Mai Thị H, Võ Nhật M và Lê Văn L đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh “phỏm”, được thua bằng tiền thì bị Công an xã N, huyện N phát hiện bắt quả tang, lập biên bản vụ việc, thu giữ gồm 01 (một) bộ bài tú lơ khơ và tổng số tiền bị cáo Nguyễn Thị G và các đối tượng dùng để đánh bạc là 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng). Mặc dù tổng số tiền bị cáo và các đối tượng sử dụng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, nhưng do bị cáo Nguyễn Thị G đã có 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2021/HS-ST ngày 17 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xử phạt 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 tháng về tội “Đánh bạc”. Đã chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 17 tháng 8 năm 2023, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội là thuộc trường hợp yếu tố định tội đối với bị cáo. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Do đó, cáo trạng và ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh N truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, với mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn nhưng đã xâm phạm đến trật tự quản lý công cộng và nếp sống văn minh, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ngoài ra còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của bao gia đình. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc của mình là trái pháp luật và đã từng bị xét xử về cùng tội danh nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng một mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Năm 2021, bị cáo đã bị xét xử về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng và rèn luyện bản thân mà nay vẫn tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên thấy rằng quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đồng thời theo lời khai của bị cáo cũng như tài liệu có trong hồ sơ thể hiện cha của bị cáo là thương binh nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và việc không buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù không làm ảnh hưởng đến khả năng tự cải tạo của bị cáo và không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo, giáo dục dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đảm bảo công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Thu giữ tại chiếu bạc tổng số tiền 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng). Trong đó số tiền dùng đánh bạc của từng người như sau: Nguyễn Thị G 660.000 đồng, Lê Văn L 200.000 đồng, Võ Nhật M 330.000 đồng và Mai Thị H 720.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định số tiền trên bị cáo và các đối tượng đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Thu giữ 01 (một) bộ bài Tú lơ khơ gồm 52 quân bài. Xác định đây là công cụ bị cáo và các đối tượng dùng sử dụng cho việc phạm tội nhưng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với Mai Thị H, Lê Văn L, Võ Nhật M cùng tham gia đánh bạc với bị cáo Nguyễn Thị G nhưng do số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000đồng và chưa bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, nên Công an huyện N, tỉnh N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị G phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị G 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 (một) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 06 tháng 3 năm 2024.

Giao bị cáo Nguyễn Thị G cho Uỷ ban nhân dân phường N, thị xã C, tỉnh N giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự :

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.910.000 đồng (Một triệu, chín trăm mười nghìn đồng).

(Số tiền trên hiện đang được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N gửi tại Kho bạc Nhà nước N theo biên bản giao nhận tài sản ngày 12 tháng 01 năm 2024).

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài Tú lơ khơ gồm 52 quân bài.

(Vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh N theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N ngày 26 tháng 01 năm 2024).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 16/2024/HS-ST

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về