TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 18/4/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ. Toà án nhân dân huyện S đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST- HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 3 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2023/ HSST-QĐ ngày 28/3/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thị T T ; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 27 tháng 8 năm 1973 tại: S - Phú Thọ; Nơi đăng ký HKTT + chỗ ở hiện nay: phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn 7/12 Con ông: Nguyễn Văn C (đã chết); Con bà: Đỗ Thị L, sinh năm 1944. Hiện ở phường Khương Đình, Quận T Xuân, TP Hà Nội; Chồng: Đặng Quang S, sinh năm 1974 (đã ly hôn). Con có 02 con. Lớn nhất sinh năm 1993. Nhỏ nhất sinh năm 1996;
- Tiền án, tiền sự: Không;
Lịch sử bản thân: Năm 2009 bị toà án nhân dân huyện S xử Cải tạo không giam giữ 06 tháng về tội đánh bạc đã được xóa án tích.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/12/2022 đến ngày 05/12/2022 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang thi hành biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại TT.S, huyện S, tỉnh Phú Thọ.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đinh Quang V, sinh năm 2003. ( Vắng mặt).
2. Anh Khuất Quang L, sinh năm 1993 (Vắng mặt) Đều cùng địa chỉ: Khu 8, xã Xuân Viên, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.
3. Anh Đỗ Văn N, sinh năm 1971. ( Vắng mặt).
Địa chỉ: Khu Soi Cả, xã H, huyện S, tỉnh Phú Thọ.
4. Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1972. ( Vắng mặt).
Địa chỉ: Xóm C, xã H, huyện S, tỉnh Phú Thọ.
5. Ông Thiều Quang C, sinh năm 1949 (Vắng mặt) Địa chỉ: Phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ.
6. Ông Hoàng Văn S, sinh năm 1962 (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm C, xã H, huyện S, tỉnh Phú Thọ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17h00 ngày 01/12/2022 tại nhà ở của Nguyễn Thị T T Cơ quan CSĐT - Công an huyện S, tỉnh Phú Thọ bắt quả tang T đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề cho Đinh Quang V , Khuất Quang L Đỗ Văn N. Vật chứng thu giữ của L, Nghiệp, V mỗi người 02 mảnh giấy có ghi nhiều số tự nhiên khác nhau được gọi là “cáp đề” ghi các số lô, số đề L, Nghiệp, V đã mua của T liền trước đó; thu giữ tại túi áo khoác bên trái T đang mặc tổng số tiền 13.800.000đ (Mười ba triệu tám trăm nghìn đồng). Cùng ngày Cơ quan CSĐT - Công an huyện S tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị T T, kết quả: tạm giữ 01 bàn nhựa học sinh, 01 ghế nhựa màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, 01 quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh tại trang đầu phía sau của quyển vở có ghi nhiều số tự nhiên khác nhau, 01 bút bi màu xanh là dụng cụ để T dùng để bán số lô, số đề ngày 01/12/2022.
Kết quả điều tra thể hiện: Lợi dụng việc làm đại lý cho Công ty TNHH MTV xổ số kiến T Phú Thọ và do cần tiền tiêu sài cá nhân nên Nguyễn Thị T T đã dựa vào kết quả mở thưởng xổ số kiến T miền Bắc để bán các số lô, số đề cho người chơi nhằm thu lợi nhuận bất chính. T tự lập bảng ghi số lô, số đề sau đó nếu có ai mua thì T bán cho họ, nếu người chơi trúng thưởng thì T trả thưởng cho người trúng thưởng. Cụ thể: vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 01/12/2022, Nguyễn Thị T T đang ở nhà của mình thì có Khuất Quang L, Đỗ Văn N và Đinh Quang V đến gặp T và hỏi mua số lô, số đề của T thì T đồng ý bán. L lấy một mảnh giấy mặt trước có ghi các số lô, số đề mà L dự định mua của T, mặt sau màu trắng (g ọi là cáp đề) rồi đọc cho T ghi, L mua của T ba dây số đề là “Dây 12” bằng 800.000đ; “Dây 15” bằng 800.000đ; “Dây 19” bằng 1.600.000đ và số lô 98 bằng 5 điểm bằng 115.000.đ, tổng số tiền mà L mua số lô, số đề của T là 3.315.000 đồng (Ba triệu ba trăm mười năm nghìn đồng). T ghi các số lô, số đề mà L đã mua và ký tên T vào mặt trước của tờ giấy có ghi Công ty TNHH MTV xổ số kiến T Phú Thọ, mặt sau của tờ giấy có ghi nhiều dòng chữ màu đen (gọi là cáp đề) rồi đưa cho L. Sau đó, T tiếp tục ghi các số lô, số đề mà L đã mua vào trang đầu tiên phía sau của quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh. Khi T ghi xong, L T toán số tiền 3.315.000 đồng cho T. T nhận số tiền 3.315.000 đồng của L trả rồi đúc vào túi áo khoác bên trái T đang mặc. Sau khi L mua số lô, số đề của T xong thì Nghiệp vào mua các số lô, số đề của T, Nghiệp lấy một mảnh giấy mặt trước có ghi các số lô, số đề mà Nghiệp dự định mua của T, mặt sau màu trắng (gọi là cáp đề) rồi đọc cho T ghi, Nghiệp mua của T bốn dây số đề là “Dây 04” bằng 800.000đ; “Dây 34” bằng 800.000đ; “Dây 31” bằng 800.000đ; “Dây 16” bằng 800.000đ ngoài ra Nghiệp còn mua số lô 38 bằng 20 điểm bằng 460.000đ, tổng số tiền mà Nghiệp mua số lô, số đề của T là 3.660.000 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng). T ghi các số lô, số đề mà Nghiệp đã mua và ký tên T vào mặt trước của tờ giấy có ghi Công ty TNHH MTV xổ số kiến T Phú Thọ, mặt sau của tờ giấy có ghi nhiều dòng chữ màu đen (gọi là cáp đề) rồi đưa cho Nghiệp. S au đó, T tiếp tục ghi các số lô, số đề mà Nghiệp đã mua vào trang đầu tiên phía sau của quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh. Khi T ghi xong Nghiệp T toán số tiền 3.660.000 đồng cho T. T nhận số tiền 3.660.000 đồng của Nghiệp trả rồi đúc vào túi áo khoác bên trái T đang mặc. Tiếp theo, Đinh Quang V vào mua số lô, số đề của T. V lấy một mảnh giấy mặt trước có ghi các số đề mà V dự định mua của T, mặt sau màu trắng (gọi là cáp đề) rồi đọc cho T ghi, V mua của T bốn dây số đề là “Dây 24” bằng 800.000đ; “Dây 02” bằng 800.000đ; “Dây 49” bằng 800.000đ; “Dây 05” bằng 800.000đ ngoài ra V còn mua số lô 84 bằng 5 điểm bằng 115.000đ, tổng số tiền mà V mua số lô, số đề của T là 3.315.000 đồng (Ba triệu ba trăm mười năm nghìn đồng). T ghi các số lô, số đề mà V đã mua và ký tên T vào mặt trước của tờ giấy có ghi Công ty TNHH MTV xổ số kiến T Phú Thọ, mặt sau của tờ giấy có ghi nhiều dòng chữ màu đen (gọi là cáp đề) rồi đưa cho V. Sau đó, T tiếp tục ghi các số lô, số đề mà V ĩ đã mua vào trang đầu tiên phía sau của quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh. Khi T ghi xong, V T toán số tiền 3.315.000 đồng cho T. T nhận số tiền 3.315.000 đồng của V trả rồi đúc vào túi áo khoác bên trái T đang mặc thì bị Công an huyện S phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Quá trình điều tra còn xác định, ngoài bán sô lô, số đề cho L, Nghiệp, V ngày 01/12/2022, T còn bán số lô, số đề cho 06 người khác gồm:
Nguyễn Ngọc T (sinh năm 1972, HKTT: xóm C, xã H, huyện S, tỉnh Phú Thọ) các số đề 89, 59, 72 mỗi số bằng 10.000đ, số đề 56 bằng 20.000đ, tổng số tiền T đã mua số đề của T là 50.000đ, T đã T toán số tiền này cho T;
Thiều Quang C (sinh năm 1949, HKTT: phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ) số đề 58, 85 mỗi số bằng 10.000đ, tổng số tiền Công đã mua số đề của T là 20.000đ, Công đã T toán số tiền này cho T;
Hoàng Văn S (sinh năm 1962, HKTT: xóm C, xã H, huyện S, tỉnh Phú Thọ) các số đề đầu 0 bằng 50.000đ, các số đề 09, 00, 01, 07, 71, 77, 67, 68, 69,91 mỗi số bằng 5.000đ tổng số tiền Sinh đã mua số đề của T là 100.000đ, do Sinh mua các số đề của T qua điện thoại nên Sinh chưa T toán số tiền này cho T;
Một người phụ nữ tên là C các số đề 22, 27, 49 mỗi số bằng 20.000đ, tổng số tiền C đã mua số đề của T là 60.000đ, C đã T toán số tiền này cho T;
Một người phụ nữ tên là Hoa các số đề 67, 76 mỗi số bằng 20.000đ, tổng số tiền Hoa đã mua số đề của T là 40.000đ, Hoa đã T toán số tiền này cho T;
Một người đàn ông đi đường T không biết tên, địa chỉ ở đâu số đề 02 bằng 30.000đ người này đã T toán tiền cho T.
Như vậy, tổng số tiền T đã bán số lô, số đề ngày 01/12/2022 là 10.590.000đ cho tất cả 09 người như nêu trên (trong số tiền này còn 100.000đ Hoàng Văn S điện thoại cho T để mua số đề của T thì T đồng ý bán và hẹn trả tiền cho T sau).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị T T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra.
Tại bản cáo trạng số: 06/CT-VKSThS ngày 24/02/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị T T về tội "Đánh bạc" quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321, điểm s, x Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T T từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Áp dụng khoản 3 Điều 321 – BLHS, phạt bổ sung bị cáo T từ 10 triệu đến 20 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;
điểm a, b,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.590.000đ (Mười triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng). Đây là số tiền bị cáo thu lời được do thực hiện hành vi đánh bạc mà có.
Tịch thu bán sung ngân sách 01 ĐT di động nhãn hiệu iphone 7, màu hồng, đã qua sử dụng gắn sim của số điện thoại 0356.113.0xx thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu xám, đã cũ, không còn lên nguồn vỡ camera phía sau, bên trong lắp sim số 03986203xx thu giữ của Hoàng Văn S.
Tịch thu tiêu hủy: 01 sim số 0356.113.0xx thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 sim số 03986203xx thu giữ của Hoàng Văn S: 01 bàn nhựa học sinh mặt bàn có nhiều màu sắc khác nhau được làm bằng nhựa, 01 ghế nhựa màu xanh, 01 bút bi màu xanh; 07 cáp đề; 01 quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh, tại trang đầu phía sau của vở có ghi nhiều số tự nhiên khác nhau là dụng cụ để T dùng để bán số lô, số đề ngày 01/12/2022.
Trả lại cho bị cáo T số tiền 3.310.000đ (ba triệu ba trăm mười nghìn đồng) vì không liên quan đến vụ án, nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất để bị cáo tự cải tạo, tu dưỡng bản thân thành người lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.
[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 01/12/2022 tại nhà ở của mình thuộc phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Thị T T đã thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số Lô, số Đề cho Đinh Quang V, Khuất Quang L, Đỗ Văn N, Nguyễn Ngọc T, Thiều Quang C, Hoàng Văn S; một người phụ nữ tên C; một người phụ nữ tên Hoa và một người đàn ông đi đường T không biết tên, địa chỉ ở đâu với tổng số tiền bán số Lô, số Đề là 10.590.000đồng. Hành vi đó của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh Bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015. Sau khi Đaị diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S luận tội, bị cáo không có lời bào chữa nào khác, thừa nhận Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, không oan, sai. HĐXX xét thấy Cáo trạng số 06/CT-VKS-Ths, ngày 24/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo về tội “ Đánh bạc” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã cố ý, xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội và ảnh hưởng xấu đến khu dân cư, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo T tuy không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu. Năm 2009 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về hành vi “Đánh bạc”, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án và đã được xóa án tích. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn C được công nhận liệt sỹ, và hiện nay bị cáo đang trực tiếp thờ cúng liệt sỹ là bố đẻ bị cáo, nên bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1 và một tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: HĐXX đồng tình với đánh giá của Kiểm Sát Viên tại bản luận tội tại phiên tòa bởi lẽ: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu trình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là tương xứng hành vi của bị cáo nhưng không cần T cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội bởi lẽ: Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điều 51- BLHS nên bị cáo đủ điều kiện được cải tạo tại địa phương theo tinh thần hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/HĐTP-TANDTC, ngày 15/5/2018 và nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP, ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[5]. Căn cứ nhân thân, tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng Vì vậy chỉ cần xử phạt bị cáo cải tạo tại địa phương với mức phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt, đồng thời ấn định cho các bị cáo một thời gian thử thách nhất định cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội vừa thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác minh phần thu nhập và điều kiện kinh tế của bị cáo T, và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo hiện đang sống tại nhà xây cấp bốn, mái lợp tôn tại thị trấn S là tài sản của con bị cáo, con bị cáo hiện đang mắc bệnh hiểm nghèo, bị cáo đi làm thuê thu nhập không ổn định nên HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
[7]. Về xử lý vật chứng: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã xác định rõ số tiền 10.590.000đồng bị cáo và các đối tượng khác sử dụng vào việc đánh bạc, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đã xác định rõ: Số tiền 13.800.000đ thu giữ của bị cáo, chỉ có 10.590.000đ là tiền ghi số lô, số đề cho L, Nghiệp, V, T, Công, Sinh và một số người mà bị cáo không biết tên, địa chỉ vào ngày 01/12/2022, số tiền 3.310.000đ trong đó có 3.000.000đ T vay của chị Nguyễn Thị Mạnh vào chiều ngày 01/12/2022 để trả tiền vay ngân hàng, còn 310.000đ là tiền cá nhân của T, không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo số tiền trên nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Tịch thu bán sung ngân sách nhà nước 01 ĐT di động nhãn hiệu iphone 7, màu hồng, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu xám, đã cũ, không còn lên nguồn vỡ camera phía sau, thu giữ của Hoàng Văn S.
Tịch thu tiêu hủy: 01 sim số 0356.113.0xx thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 sim số 03986203xx thu giữ của Hoàng Văn S; 01 bút bi màu xanh; 07 cáp đề; 01 quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh, tại trang đầu phía sau của vở có ghi nhiều số tự nhiên khác nhau; 01 bàn nhựa học sinh mặt bàn có nhiều màu sắc khác nhau được làm bằng nhựa, 01 ghế nhựa màu xanh là dụng cụ để T dùng để bán số lô, số đề ngày 01/12/2022. không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[8]. Các nội dung khác:
Lệnh cấm khỏi nơi cư trú số 07 ngày 28/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện S áp dụng đối với bị cáo đã hết hiệu lực nên HĐXX không xem xét .
Đối với Nguyễn Văn N ngày 11/4/2012, Nghiệp bị Toà án nhân dân huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ xử phạt 27 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo bản án số 20/2012/HSST hiện đã được xóa án tích. Đối với Khuất Quang L, Đinh Quang V, Nguyễn Ngọc T, Thiều Quang C, Hoàng Văn S chưa có tiền án, tiền sự về các tội danh liên quan đến hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Do vậy, hành vi của Nghiệp, L, V, T, Công, Sinh không đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Hành vi của Nghiệp, L, V, T, Công, Sinh là hành vi vi phạm hành chính. Ngày 03/01/2023, Công an huyện S đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 183, 184, 185, 186, và 188 đối với Đỗ Văn N, Khuất Quang L, Đinh Quang V, Nguyễn Ngọc T, Thiều Quang C, Hoàng Văn S xét thấy là có căn cứ.
Đối với người người phụ nữ tên là C; người phụ nữ tên là Hoa và một người đàn ông T không biết tên, địa chỉ ở đâu mua số đề của T chiều ngày 01/12/2022. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã thực hiện các biện pháp nghiệp vụ nhưng vẫn không xác định được danh tính và nhân thân. Do vậy không có cơ sở để xử lý đối với những người này là đúng quy định pháp luật.
[9]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321, điểm s, x Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1+2 + 5 Điều 65 - Bộ luật Hình sự 2015.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T T phạm tội "Đánh bạc".
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thị T T 09 (Chín) tháng tu nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật thi hành án hình sự.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo T.
2. Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015;
Điểm a, b, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.590.000đồng (Mười triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng) là phương tiện phạm tội của bị cáo T để nộp ngân sách Nhà nước.
Tịch thu bán sung ngân sách 01 ĐT di động nhãn hiệu iphone 7, màu hồng, đã qua sử dụng gắn sim của số điện thoại 0356.113.0xx thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu xám, đã cũ, không còn lên nguồn vỡ camera phía sau, bên trong lắp sim số 03986203xx thu giữ của Hoàng Văn S.
Tịch thu tiêu hủy: 01 sim số 0356.113.0xx thu giữ của Nguyễn Thị T T; 01 sim số 03986203xx thu giữ của Hoàng Văn S; 01 bút bi màu xanh; 07 cáp đề; 01 quyển vở bên trong có dòng kẻ ngang màu xanh, tại trang đầu phía sau của vở có ghi nhiều số tự nhiên khác nhau; 01 bàn nhựa học sinh mặt bàn có nhiều màu sắc khác nhau được làm bằng nhựa, 01 ghế nhựa màu xanh là dụng cụ để T dùng để bán số lô, số đề ngày 01/12/2022.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị T T số tiền 3.310.000đ vì không liên quan đến vụ án, nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Vật chứng là đồ vật đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra bàn giao cho cơ quan Thi hành án dân sự huyện S theo biên bản giao, nhận vật chứng vật chứng là tiền đang được tạm giữ ở tài khoản số 3940.0.1.0XXXXXX.00000 ngày 13/3/2023 tại kho bạc huyện Thanh Sơn, tỉnh phú thọ ngày 13/3/2023.
3. Án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Thị T T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày bản án sơ thẩm được niêm yết tại UBND nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội đánh bạc số 15/2023/HS-ST
Số hiệu: | 15/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về