Bản án về tội đánh bạc số 15/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 15/2023/HS-PT NGÀY 07/03/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 164/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T do có kháng cáo của các bị cáo này đối với bản án hình sự sơ thẩm số 51/2022/HS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H H, tỉnh Thái Bình.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Đoàn Tuấn A; giới tính: Nam; sinh năm 1988; Nơi cư trú: Thôn Hải TrX, xã T L, huyện HH, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đoàn Văn L và bà Vũ Thị T; Có vợ là Phan Thị T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

2. Trần Văn T; giới tính: Nam; sinh năm 1990; Nơi cư trú: Thôn L X B, xã C T, huyện H H, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Văn T và bà Khúc Thị Ph; Có vợ là Nguyễn Thị Th và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

- Bị cáo Trần Văn S không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/12/2021 Đoàn Tuấn A đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức bán số lô, số đề cho Trần Văn T và Trần Văn S, những người chơi quy định tỷ lệ được, thua: Đối với số lô là 22/80 (cứ mua 22.000 đồng, nếu trúng thì được 80.000 đồng, nếu không trúng thì mất số tiền đã mua cho người bán số lô); số đề là 1/80 (nếu trúng thì được 80 lần số tiền mua, nếu không trúng thì mất số tiền đã mua cho người bán số đề); số lô xiên 2 là 10/100 (nếu trúng thì được tính theo số tiền mua, cứ 10.000 đồng thì được 100.000 đồng; nếu thua thì mất số tiền đã mua cho người bán); số lô xiên 3 là 10/450 (nếu trúng thì được tính theo số tiền mua, cứ 10.000 đồng thì được 450.000 đồng; nếu thua thì mất số tiền đã mua cho người bán); số lô xiên 4 là 10/1.200 (nếu trúng thì được tính theo số tiền mua, cứ 10.000 đồng thì được 1.200.000 đồng; nếu thua thì mất số tiền đã mua cho người bán); đề 3 càng là 1/400 (nếu trúng thì được tính theo số tiền mua, cứ 10.000 đồng thì được 400.000 đồng; nếu thua thì mất số tiền đã mua cho người bán). Kết quả được thua căn cứ vào kết quả xổ số Miền Bắc do Công ty xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng vào hồi 18 giờ 15 phút cùng ngày. Quy định giữa người mua và người bán: Trúng số đề là người mua số trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt; trúng số đề 3 càng là người mua số trùng với 03 số cuối của giải đặc biệt; trúng số lô là người mua số trùng với 02 số cuối của tất cả các giải; lô xiên 2 là người mua 02 cặp số lô trùng với 02 số cuối của tất cả các giải; lô xiên 3 là người mua 03 cặp số lô trùng với 02 số cuối của tất cả các giải); lô xiên 4 là người mua 04 cặp số lô trùng với 02 số cuối của tất cả các giải. Việc thanh toán được thua sẽ tính vào ngày hôm sau sau khi đã đối trừ đi số tiền đã mua. Cụ thể:

- Hồi 14 giờ 09 phút ngày 19/12/2021, T sử dụng số thuê bao di động 0968.318.124 nhắn tin SMS đến số thuê bao 0971.729.888 của Tuấn A mua 1.700 điểm các số lô, cụ thể gồm các số: 03, 15, 25, 26, 31, 38, 40, 45, 52, 62, 66, 83 với tổng số tiền là: 37.400.000 đồng và số đề 03 với số tiền là 100.000 đồng, tổng số tiền là 37.500.000 đồng. Đối chiếu kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, T trúng 600 điểm các số lô 25, 45, 66 với tổng số tiền là 48.000.000 đồng. Tổng số tiền Tuấn A và T đánh bạc là 85.500.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 41 phút ngày 19/12/2021, Trần Văn S sử dụng tài khoản Zalo “Trần số” đăng ký bằng số thuê bao 0974.020.892 nhắn tin đến tài khoản Zalo “Im lặng là vàng” của Tuấn A để mua 70 điểm gồm các số lô: 11, 12, 22, 37, 47, 73, 77 với tổng số tiền là 1.540.000 đồng; 10.000 đồng số đề 3 càng 272; 20.000 đồng số lô xiên 3 (22,77,67); 20.000 đồng số lô xiên 4 (02, 84, 43, 56); các số đề đầu 7, đầu 8, đuôi 8 và các số 03, 05, 09, 26, 27, 36, 47, 49, 56, 62, 63, 65, 67, 99 với tổng số tiền là 1.080.000 đồng. Đối chiếu kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, bị cáo Số trúng 10 điểm lô số 73 được số tiền 800.000 đồng và 30.000 đồng số đề 73 được số tiền 2.400.000 đồng. Tổng số tiền Tuấn A và S đánh bạc là 5.870.000 đồng (tổng số tiền S đánh bạc là 2.670.000 đồng, trúng 3.200.000 đồng).

Các bị cáo chưa thanh toán tiền cho nhau.

Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2022/HS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H H, tỉnh Thái Bình quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Tuấn A, Trần Văn T và Trần Văn S phạm tội “Đánh bạc”.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 50; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Đoàn Tuấn A 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 54; Điều 50; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trần Văn T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Trần Văn S 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng, quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 01/8/2022, bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên kháng cáo của mình với lý do: Các bị cáo đã nhận thức ra hành vi phạm tội của mình và rất ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, đây là lần đầu các bị cáo phạm tội, cả hai đều là lao động chính trong gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo kháng cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự , châp nhân khang cao cua các bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt nhưng chuyển biện pháp chấp hành hình phạt cho các bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T được hưởng án treo.

Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội tự cải tạo tại địa phương, lao động giúp đỡ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo thấy:

[2.1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với Biên bản kiểm tra điện thoại và ảnh chụp màn hình điện thoại của Tuấn A, S; bảng kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng ngày 19/12/2021 và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm có cơ sở để kết luận: Trong ngày 19/12/2021, bị cáo T đã dùng số tiền 37.500.000 đồng để mua các số lô, số đề của Tuấn A, trúng được số tiền 48.000.000 đồng, tổng số tiền T, Tuấn A đánh bạc là 85.500.000 đồng. Bị cáo S dùng số tiền 2.670.000 để mua các số lô, đề, lô xiên của Tuấn A, trúng được 3.200.000 đồng, tổng số tiền bị cáo S, Tuấn A đánh bạc là 5.870.000 đồng. Tổng số tiền Tuấn A đánh bạc với T và Số là 91.370.000 đồng, số tiền thắng thua giữa Tuấn A với T và S chưa thanh toán cho nhau.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Đoàn Tuấn A, Trần Văn T về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo thấy: hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự, an toàn công cộng. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo để xử phạt bị cáo Đoàn Tuấn A 03 năm tù, bị cáo Trần Văn T 02 năm 09 tháng tù là có căn cứ. Do đó, không có căn cứ để giảm hình phạt cho các bị cáo.

[2.3] Xét yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo thấy:

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, thống nhất từ trước. Bị cáo Tuấn A và bị cáo T đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo T đã tự nguyện nộp số tiền 20.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Bị cáo Tuấn A và bị cáo T cũng có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội là có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, các bị cáo có khả năng tự cải tạo mà không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù, cho các bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách để các bị cáo cải tạo tại địa phương, tiếp tục lao động nuôi sống bản thân và gia đình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình tại phiên tòa là phù hợp. Do đó cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Tuấn A và bị cáo T, sửa bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T được chấp nhận một phần nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T, sửa một phần bản án sơ thẩm số 51/2022/HS-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H H, tỉnh Thái Bình, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Đoàn Tuấn A và Trần Văn T được hưởng án treo. Cụ thể:

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 50; Điều 58 và Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Đoàn Tuấn A 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phuc thẩm 07/3/2023 về tội Đánh bạc.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 54; Điều 50; Điều 58 và Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trần Văn T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phuc thẩm 07/3/2023 về tội Đánh bạc.

Giao bị cáo Đoàn Tuấn A cho Ủy ban nhân dân xã T L, huyện H H, tỉnh Thái Bình; giao bị cáo Trần Văn T cho Ủy ban nhân dân xã C T, huyện H H, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đoàn Tuấn A, Trần Văn T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Áp dung Điêu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Đoàn Tuấn A, Trần Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 07/3/2023./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 15/2023/HS-PT

Số hiệu:15/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về