TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 15/2022/HS-PT NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 20/2022/TLPT-HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị T, sinh ngày 15/5/1975 tại tỉnh Tuyên Quang.
Nơi cư trú: Tổ 06, phường P, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao Động tự do; trình Đ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; chức vụ đảng, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Danh G (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1927; có chồng Trần Văn Đ và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 16/6/2021, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1970; Địa chỉ: Tổ 06, phường P, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 07/6/2021, Hoàng Mạnh H, trú tại tổ dân phố 10, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang mượn xe ôtô nhãn hiệu TOYOTA Vios, Biển kiểm soát 22A- 095.53 của Nguyễn Văn Hà, trú tại tổ dân phố 16, phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang để đi chở khách. Nhưng sau đó, H mang xe ô tô của anh Hà cầm cố cho Hà Văn Cường, sinh năm 1987, trú tại thôn Yên Cốc, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, lấy số tiền 150.000.000 đồng.
Sau khi lấy được tiền cầm cố xe ôtô, H gọi điện cho Nguyễn Thị T, trú tại tổ dân phố 06, phường P, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hỏi mua số lô trái phép (đánh bạc trái phép), T đồng ý và báo giá 01 điểm lô là 22.500 đồng (Hai mươi hai nghìn năm trăm đồng). Đến hồi 17 giờ 25 phút cùng ngày 07/6/2021, H chuyển cho T số tiền 112.500.000 đồng (Một trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) qua ứng dụng Viettinbank iPay trên điện thoại di Đng từ tài khoản ngân hàng Viettinbank của H số 106005806122 vào tài khoản ngân hàng Liên Việt Postbank chi nhánh Tuyên Quang của T số 036001599999. Sau đó H chụp ảnh nội dung giao dịch chuyển tiền thành công gửi cho T qua ứng dụng Zalo, đồng thời nhắn tin cho T với nội dung “Lô 04 = 5.000đ” (nghĩa là H mua số lô 04 là 5.000 điểm); T nhắn tin lại “ok 04x5 nghìn điểm” (nghĩa là T đồng ý bán 5.000 điểm số lô 04 cho H).
Hình thức T và H đánh bạc là căn cứ vào kết quả mở thưởng xổ số Miền Bắc hồi 18 giờ 15 phút trong ngày để trả tiền khi người mua trúng số lô, cụ thể: nếu hai số của người đánh trùng với hai số của bất k giải nào trong các giải xổ số Miền Bắc thì người đánh trúng số lô (T bạc) và được trả 80.000 đồng/1điểm (kết quả sổ số mở thưởng ngày 07/6/2021, H không trúng thưởng).
Như vậy, số tiền H đánh bạc (mua số lô) trái phép với T là 112.500.000 đồng (Một trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội Đánh bạc.
Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 16/6/2021 là 06 (Sáu) ngày; bị cáo còn phải chấp hành hình phạt tù là 02 (Hai) năm 11 (Mười một) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án phạt tù.
Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị T 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử phạt: Bị cáo Hoàng Mạnh H 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù và Phạt tiền bị cáo Hoàng Mạnh H 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước về tội Đánh bạc. Xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/3/2022 bị cáo Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung xin hưởng án treo để cải tạo tại địa phương. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Đ trình bày: đối với các giấy tờ của anh đã bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Tuyên Quang thu giữ gồm 50 tờ vé xổ số kiến thiết Tuyên Quang loại vé lô tô ghi ngày 8/6/2021; 52 tờ vé xổ số kiến thiết Tuyên Quang loại vé lô tô ghi ngày 09/6/2021; 04 mảnh giấy trắng có ghi số, được đánh số từ 01 đến 04; 08 tờ giấy A4 có ghi chữ số, 03 tờ giấy nhỏ được cắt ra từ giấy A4, do các giấy tờ, vé số trên không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên anh đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho anh.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định pháp luật; đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ trong hạn luật định; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết liên quan đến vụ án, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, đánh giá vai trò, mức Đ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
Ngoài những tình tiết giảm nhẹ Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị T xuất trình 01 Biên lai thể hiện bị cáo đã nộp số tiền bị truy thu là 42.300.000đ, tiền phạt bổ sung 15.000.000đ, tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ và 01 Giấy khen của Giám đốc chi nhánh Viettel Tuyên Quang. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo. Xét bị cáo Nguyễn Thị T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo bị cáo Nguyễn Thị T, sửa một phần Bản án hình sự số 17/2022/HS-ST ngày 11/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị T theo hướng giữ nguyên hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc, thời gian thử thách 05 (năm) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã, phường nơi bị cáo cư trú để quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.
Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 57.500.000đ, gồm số tiền truy thu, tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Trần Văn Đ đề nghị trả lại các giấy tờ, vé số đã thu giữ trong quá trình điều tra, xét thấy những giấy tờ trên không liên quan đến việc bị cáo phạm tội, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên trả lại cho anh Đ là có căn cứ, do vậy cần giữ nguyên như bản án sơ thẩm đã tuyên.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát. Khi được Hội đồng xét xử cho phép nói lời sau cùng, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin được hưởng án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 17 giờ 25 phút ngày 07/6/2021, Hoàng Mạnh H, trú tại tổ dân phố 10, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, có hành vi đánh bạc (mua số lô trái phép) với Nguyễn Thị T trú tại tổ dân phố 06, phường P, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, với số tiền đánh bạc là 112.500.000 đồng (Một trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
[2] Xét tính chất, mức Đ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của gia đình bị cáo mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức Đ hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù về tội Đánh bạc là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới:
01 Biên lai thể hiện bị cáo đã nộp số tiền bị truy thu là 42.300.000đ, tiền phạt bổ sung 15.000.000đ, tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ và 01 Giấy khen của Giám đốc chi nhánh Viettel Tuyên Quang. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.
Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Nguyễn Thị T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, do đó thấy không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo có cơ hội được cải tạo tại địa phương để sửa chữa lỗi lầm. Vì vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[4] Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn Đ: Xét thấy anh Đ không kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm anh Đ tiếp tục đề nghị được nhận lại số giấy tờ, vé số đã bị thu giữ gồm: 50 tờ vé xổ số kiến thiết Tuyên Quang loại vé lô tô ghi ngày 08/6/2021; 52 tờ vé xổ số kiến thiết Tuyên Quang loại vé lô tô ghi ngày 09/6/2021; 04 mảnh giấy trắng có ghi số, được đánh số từ 01 đến 04; 08 tờ giấy A4 có ghi chữ số, 03 tờ giấy nhỏ được cắt ra từ giấy A4. Xét các giấy tờ, vé số nêu trên Cơ quan điều tra đã thu giữ không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên trả lại cho anh Đ là có căn cứ. Do vậy cần giữ nguyên như bản án sơ thẩm đã tuyên.
[5] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
[6] Bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 57.500.000đ, gồm số tiền bị tuyên truy thu, tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0000112 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 11/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị T như sau:
1. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách 05 (Năm) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 11/5/2022.
Giao bị cáo Nguyễn Thị T cho Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trong thời gian thử thách nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Trong thời gian thử thách của án treo nếu bị cáo Nguyễn Thị T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Ghi nhận bị cáo Nguyễn Thị T đã nộp xong số tiền bị truy thu 42.300.000đ, tiền phạt bổ sung 15.000.000đ, tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ, tổng cộng 57.500.000đ (Năm mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tại Biên lai số 0000112 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (11/5/2022)./.
Bản án về tội đánh bạc số 15/2022/HS-PT
Số hiệu: | 15/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về