Bản án về tội đánh bạc số 151/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 151/2022/HS-PT NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 06 và 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 24/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Lương Sĩ T và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2021/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lương Sĩ T, sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Số 26, tổ 57, khóm x, Phường y, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lương Quang Đ và bà Đỗ Thị Ngọc H; có vợ tên Đặng Thị C và có 01 con sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; tạm giữ: Không; tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Minh T1, sinh năm 1978 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: Số 258, ấp N, xã Tân Khánh T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; trình độ học vấn: 4/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ tên Trần Thị Thu H và có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/01/2019 bị Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng về hành vi “Tổ chức đánh bạc”, đã nộp phạt xong ngày 18/02/2019; tạm giữ: Không; tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại tại và có mặt tại phiên tòa.

3. Trần Văn H, sinh năm 1986 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Số 259, khóm Sa N, phường Tân Quy Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp; cư trú tại: Số 254, khóm Sa N, phường Tân Quy Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Minh H và bà L Thị Bé B có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc N và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 05/11/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; tạm giữ: Không; tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra có các bị cáo Trần Duy T3, Trương Bửu Q, Võ Tùng L không kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thấy chuồng bò phía sau nhà của một người dân bỏ hoang tại khu đất trống thuộc ấp Hưng Mỹ Đ, xã L, huyện V, tỉnh Đồng Tháp, nên các con bạc thường xuyên đến đây lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền.

Chiều ngày 04/8/2020 Lương Sĩ T, Trần Duy T3, Trần Văn H, Trần Minh T1, Trương Bửu H, Võ Tùng L và một số đối tượng rủ nhau đến địa điểm trên để chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền. Hình thức chơi lắc tài xỉu, do Lương Sĩ T làm cái, lắc 03 hột xí ngầu để trong đĩa sứ đậy nắp nhựa và quy ước bên tay trái của T là các tụ đặt xỉu, bên tay phải của T là các tụ đặt tài. Sau khi lắc nếu 03 mặt xí ngầu từ 11 nút trở lên là tài, từ 10 nút trở xuống là xỉu, còn nếu số nút của 03 hột xí ngầu như nhau là bão (nếu bão tài thì tụ tài chạy với nhà cái, tụ xỉu thua cho nhà cái và ngược lại). Trần Minh T1 với vai trò làm dĩ, ngồi đối diện với T, giúp sức cho T, phụ trách kiểm đếm tiền, thu tiền bên thua, chung tiền cho bên thắng sau mỗi lượt lắc, T hứa hẹn khi chơi xong T cho H tiền tiêu xài. Đến khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi T làm cái đến ván thứ ba, vừa lắc đĩa xí ngầu xong, chua khui đĩa, H và Hiếu mỗi người đặt cược 100.000 đồng vào tụ tài, Tiền cầm trên tay 1.500.000 đồng, chuẩn bị đặt 100.000 đồng, L cầm trên tay 200.000 chuẩn bị đặt 50.000 đồng, còn chưa biết đặt vào tài hay xỉu thì lực lượng Công an đến bắt quả tang Trần Văn H tại chiếu bạc, các đối tượng còn lại bỏ chạy, Trần Duy Tiền bỏ lại 1.500.000đ tại chiếu bạc.

Thu giữ tại chiếu bạc: Dụng cụ lắc tài xỉu gồm: 02 viên xí ngầu; 01 lon nhựa màu đen; 01 đĩa sứ; số tiền 6.100.000 đồng; 01 điện thoại di động màu xanh đen nhãn hiệu OPPO, Imei 1: 869602034597834, Imei 2: 869602034597826.

Kiểm tra xung quanh, thu giữ số tiền 1.000.000 đồng.

Kiểm tra trên người các đối tượng thu giữ của: Trần Văn H số tiền 350.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A20 màu xanh đen, số Imei 1: 357648106609964/01, số Imei 2: 357648106609962/01; Lương Phú Quốc điện thoại di động Iphone số Imei: 354410064975322.

Quá trình điều tra đã xác định được Lương Phú Q, Trần Minh T4, Lê Minh H3 (Mười Hai), Nguyễn Văn Bé H5, Lại Văn D (Tư Lùn) có đến địa điểm đánh bạc, nhưng không có tham gia đánh bạc nên không xử lý.

Quá trình điều tra xác định được số tiền thu giữ tại chiếu bạc và xung quanh chiếu bạc tổng số là 7.100.000 đồng, các bị cáo đều trình bày là tiền dùng để đánh bạc; số tiền 350.000 đồng thu trên người của H là tiền H mang theo để đánh bạc; 01 điện thoại di động màu xanh đen nhãn hiệu OPPO, Imei 1: 869602034597834, Imei 2: 869602034597826 của Võ Tùng L; ngày 09/02/2021 Võ Tùng L đã nộp lại 50.000đ dự định đặt ở ván thứ 3.

Cơ quan điều tra đã trả lại cho: Lương Phú Q 01 điện thoại di động Iphone số Imei: 354410064975322; Trần Văn H 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu đen, số Imei 1: 357648106609964/01, số Imei 2: 357648106609962/01; Võ Tùng L 01 điện thoại di động màu xanh đen nhãn hiệu OPPO, Imei 1: 869602034597834, Imei 2: 869602034597826.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2021/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V quyết định:

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố các bị cáo Lương Sĩ T, Trần Duy T3, Trần Văn H, Trần Minh T1, Trương Bửu Q và Võ Tùng L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lương Sĩ T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo T đi chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Lương Sĩ T số tiền là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

3. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Minh T1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo H đi chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Minh T1 số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

4. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo H đi chấp hành hình phạt tù.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn H số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt, phạt bổ sung đối với các bị cáo Trần Duy T3, Trương Bửu Q, Võ Tùng L, xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, bị cáo Lương Sĩ T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và nộp tiền phạt bổ sung số tiền 15.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0001112 ngày 03/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

Ngày 26 tháng 11 năm 2021, bị cáo Trần Minh H kháng cáo xin hưởng án treo và nộp tiền phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm số tiền 10.200.000 đồng theo Biên lai thu số 0001111 ngày 30/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

Ngày 26/11/2021 bị cáo Trần Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, cung cấp biên lai nộp phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm theo bản án sơ thẩm đã tuyên số tiền 10.200.000 đồng theo các Biên lai thu số 0001137, 0001138 cùng ngày 07/3/2022.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lương Sĩ T thừa nhận ngày 04/8/2020 bị cáo có tham gia đánh bạc với hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền cùng với các bị cáo Trần Duy T3, Trần Văn H, Trương Bửu Q và Võ Tùng L. Bị cáo T làm cái, H làm dĩ, T3 là người rủ bị cáo chơi đánh bạc và T3 trực tiếp tham gia đặt tụ cùng với H, Q và L. Hiện nay bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi cha mẹ già, mẹ bị cáo là giáo viên đã về hưu và được trao tặng huy chương vì sự nghiệp giáo dục năm 1995, hiện đang bị bệnh tai biến mạch máu não, thiếu máu cơ tim, hẹp động mạch dưới đòn, đái tháo đường type 2 không tự đi lại, vệ sinh cá nhân và ăn uống được, bị cáo trực tiếp chăm sóc cho mẹ, vợ bị cáo bệnh hiểm nghèo xuất huyết suy giảm tiểu cầu, rối loạn Đ máu từ năm 2012 đến nay. Ông Huỳnh Anh Kiệt là cậu ruột của mẹ bị cáo được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, nhì, ba do có công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước. Bị cáo rất ăn năn hối hận, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo để có thời gian chăm sóc cha mẹ già, khắc phục lỗi lầm bị cáo đã gây ra.

Bị cáo Trần Minh H khai nhận ngày 04/8/2020 có tham gia đánh bạc với hình thức lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền với vai trò làm dĩ cho bị cáo Lương Sĩ T còn các bị cáo Trần Duy T3, Trần Văn H, Trương Bửu Q và Võ Tùng L tham gia đặt tụ. Hiện nay hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nuôi cha mẹ già, chị ruột bị bệnh tâm thần, vợ bị gãy chân không lao động được, hai con nhỏ có xác nhận chính quyền địa phương. Bị cáo là cháu ruột của liệt sĩ Nguyễn Văn Quang đã hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, là gia đình có công với cách mạng. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Bị cáo Trần Văn H thừa nhận ngày 04/8/2020 bị cáo sử dụng số tiền 2.350.000 đồng tham gia đánh bạc với hình thức được ăn thua bằng tiền cùng với T, T3, H, L, Q tại khu đất trống thuộc ấp Hưng Mỹ Đ, xã L, huyện V, tỉnh Đồng Tháp. Bị cáo đặt tụ tới ván thứ ba chưa có kết quả thắng thua thì bị Công an huyện V bắt quả tang về hành vi đánh bạc. Hiện nay hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, vợ không có việc làm và có hai con nhỏ xin được sự khoan hồng của Nhà nước, đã nộp phạt bổ sung và án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ. Bị cáo T kháng cáo cung cấp tình tiết ông cậu là người có công cách mạng, mẹ ruột được Chủ tịch nước tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục từ năm 1995. Bị cáo H cung cấp tình tiết gia đình có công cách mạng, chị ruột bị bệnh tâm thần. Bị cáo H cung cấp tình tiết hoàn cảnh gia đình khó khăn. Các bị cáo T, T1, H thừa nhận có tham gia đánh bạc vào ngày 04/8/2020 với hình thức lắc tài xỉu được ăn thua bằng tiền tại chuồng bò bỏ hoang thuộc ấp Hưng Mỹ Đ, xã L, huyện V, tỉnh Đồng Tháp thì bị bắt quả tang, tổng số tiền đánh bạc 7.500.000 đồng, bị cáo H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, bị cáo H có tiền án đã được xóa án tích nên không thuộc trường hợp được hưởng án treo. Bị cáo T1 có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuy nhiên bị cáo có vai trò làm dĩ giúp sức cho bị cáo T chung chi tiền thắng, thua và mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo T1, H là phù hợp. Bị cáo T có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, sửa bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo T1, H.

Các Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo T xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo H xin hưởng án treo, bị cáo T1 xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo T, T1 và H làm trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo T, H và T1 thừa nhận khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020 Lương Sĩ T, Trần Duy T3, Trần Văn H, Trần Minh T1, Trương Bửu H5, Võ Tùng L tham gia đánh bạc với hình thức chơi lắc tài xỉu được ăn thua bằng tiền tại chuồng bò bỏ trống thuộc ấp Hưng Mỹ Đ, xã L, huyện V. Trong đó T với vai trò là người làm cái, T1 làm dĩ, ngồi đối diện với T, giúp sức cho T, phụ trách kiểm đếm tiền, thu tiền bên thua, chung tiền cho bên thắng sau mỗi lượt lắc, còn T3, H, Q và L tham gia đặt tụ. T vừa lắc đĩa xí ngầu ở ván ba xong, chưa khui đĩa, H và H5 đặt tụ xong, T3 và L chuẩn bị đặt tụ thì bị Công an bắt quả tang, tiền thu tại chiếu bạc 6.100.000 đồng, thu xung quanh chiếu bạc 1.000.000 đồng, H nộp thêm số tiền 350.000 đồng và L nộp 50.000 đồng là tiền đã dùng vào việc đánh bạc. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự ở địa phương, các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được tham gia đánh bạc là vi phạm pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo T, T1 và H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đã phân hóa vai trò của từng bị cáo, xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo. Xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với T 09 tháng tù, bị cáo T1 và H mỗi bị cáo 06 tháng tù là phù hợp với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo:

[3.1] Bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và cung cấp tình tiết mới vợ bị bệnh hiểm nghèo xuất huyết giảm tiểu cầu nguyên phát vô căn, bệnh lý chức năng tiểu cầu có xác nhận của Bệnh viện Quân - Dân y tỉnh Đồng Tháp, ông Huỳnh Anh K (cậu ruột mẹ bị cáo) là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu hạng nhất và ba do có công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước, bị cáo đang nuôi cha mẹ già, bà Đỗ Thị Ngọc H2 là mẹ ruột bị cáo được Chủ tịch nước tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục từ năm 1995, hiện đang bị bệnh hiểm nghèo (tai biến mạch máu não, thiếu máu cơ tim, hẹp động mạch dưới đòn, đái tháo đường type 2) không tự ăn uống, đi lại, vệ sinh cá nhân được và đang điều trị tại Bệnh viện tim mạch, đột quỵ Cần Thơ, bị cáo nộp tiền phạt bổ sung số tiền 15.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0001112 ngày 03/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã thật sự ăn năn hối cải, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3.2] Bị cáo T1 có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo cung cấp tình tiết bác ruột là liệt sĩ Nguyễn Văn Quang, đang nuôi chị ruột bị bệnh tâm thần và nộp tiền phạt bổ sung số tiền 10.200.000 theo Biên lai thu số 0001111 ngày 30/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, hoàn cảnh gia đình khó khăn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Số tiền bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tổ chức đánh bạc” nhưng bị cáo không chịu từ bỏ, tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc vào ngày 04/8/2020 nên không đủ điều kiện cho bị cáo hưởng án treo và mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với vai trò, hành vi của bị cáo. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

[3.3] Đối với bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo và cung cấp Biên lai thu tiền số 0001137 ngày 07/3/2022 nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng theo bản án sơ thẩm đã tuyên, hoàn cảnh gia đình khó khăn đang nuôi hai con nhỏ, vợ không có việc làm, bị cáo là lao động chính trong gia đình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tiền án phí hình sự sơ thẩm bị cáo nộp 200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0001138 ngày 07/3/2022 không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo H có nhân thân xấu ngày 05/11/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã S xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chỉ có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thật thà khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 và tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không đủ điều kiện được hưởng án treo cũng như đủ tình tiết để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

[4] Những ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo T1, H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định; bị cáo T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Sĩ T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2021/HS-ST ngày 08 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V về hình phạt đối với bị cáo Lương Sĩ T.

Không nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh T1, Trần Văn H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2021/HS-ST ngày 08 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V về hình phạt đối với bị cáo Trần Minh T1, Trần Văn H.

1.1. Căn cứ khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố các bị cáo Lương Sĩ T, Trần Văn T1, Trần Minh H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lương Sĩ T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo T đi chấp hành hình phạt tù.

1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Minh T1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo T1 đi chấp hành hình phạt tù.

1.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo H đi chấp hành hình phạt tù.

2. Về án phí:

Bị cáo Lương Sĩ T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Trần Minh T1, Trần Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 151/2022/HS-PT

Số hiệu:151/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về