Bản án về tội đánh bạc số 149/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 149/2022/HS-PT NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 147/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Phi L và bị cáo Trần Văn Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 114/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Phi L, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: số 17/23 (số mới 28/17/7C tổ 23 đường X), khu phố Th, phường D1, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm gỗ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Tấn M, sinh năm 1954 và con bà Đỗ Thị Ng, sinh năm 1957; bị cáo có 03 chị em ruột, bị cáo là thứ 3; tiền án: không.

Tiền sự: ngày 20/7/2020 Công an thành phố D, tỉnh Bình Dương xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm phạm sức khỏe người khác”, theo Quyết định số 196, đóng tiền phạt ngày 04/9/2020. Bị cáo bị tạm giữ 01 ngày 03/7/2021, bị áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Trần Văn Th, sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: số 24 G khu phố B, phường B1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Văn C, sinh năm 1949 (đã chết) và con bà Phạm Thị L, sinh năm 1950; bị cáo có vợ tên Bùi Thị Th, sinh năm 1984 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 14/9/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 212 (đóng án phí ngày 12/9/2007, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2008. Bị cáo bị tạm giữ 01 ngày 03/7/2021, bị áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Ngoài ra, có 04 bị cáo và 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 03/7/2021, bị cáo Nguyễn Phi L đồng ý cho các bị cáo Trần Văn Th, Đặng Uyên Ng1, Lê Văn N, Đào Minh T, Trần Vũ Đức B đá gà thắng thua bằng tiền tại bãi đất trống bên hông trong khuôn viên ngôi nhà của bà Đỗ Thị Ng (mẹ của bị cáo Nguyễn Phi L) tại số 28/17/7C đường X, tổ 23, khu phố Th, phường D1, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo Nguyễn Phi L rủ bị cáo Trần Văn L1 đến nhà gia đình của bị cáo L để chơi đá gà. Bị cáo L cung cấp băng keo, cân, đồng thời làm trọng tài, khi đá gà bên nào thắng thì L thu xâu 300.000 đồng.

Bị cáo Trần Văn Th mang một con gà đá nặng 2,95kg và rủ bị cáo Đặng Uyên Ng1 cùng đi đến chỗ L chơi đá gà. Th sử dụng số tiền 4.500.000 đồng, Nguyên sử dung số tiền 500.000 đồng để đánh bạc.

Bị cáo Đào Minh T mang theo một con gà đá nặng 2,9kg, một cặp cựa sắt, cùng bị cáo Trần Vũ Đức B đến chỗ L chơi đá gà. T sử dụng số tiên 4.000.000 đồng, B sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc.

Bị cáo Lê Văn N giúp bị cáo T thả gà, băng cựa gà, nếu T thắng thì cho Ngọc 50.000 đồng đến 100.000 đồng, còn thua thì không phải cho tiền.

Sau đó Thg, Ng1 cho gà đá với bên T, B; số tiền mỗi bên sử dụng là 5.000.000 đồng, tổng số tiền cá cược 10.000.000 đồng. Các bên đang cho gà đá thì bị Công án bắt giữ và thu giữ vật chứng gồm: 02 con gà, 01 cái cân loại 5kg, 02 cặp cựa sắt, 03 cuộn băng keo vải; số tiền đánh bạc 10.000.000 đồng; 02 điện thoại di dộng và 02 xe mô tô.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phi L, Trần Văn Th phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi L 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ 01 ngày (03/7/2021).

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Th 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ 01 ngày (03/7/2021).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Đặng Uyên Ng1 07 (bảy) tháng tù, bị cáo Đào Minh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo Trần Vũ Đức B 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, bị cáo Lê Văn N 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, bị cáo Trần Văn Th làm đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 04 tháng 5 năm 2022, bị cáo Nguyễn Phi L làm đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Đơn kháng cáo của các bị cáo đúng theo thời hạn luật định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa ra xem xét theo thủ tục phúc thẩm là đúng quy định.

Về nội dung: các bị cáo Nguyễn Phi L và Trần Văn Th kháng cáo xin giảm hình phạt và hưởng án treo. Bị cáo Th bổ sung tài liệu “Giấy khen của Chủ tịch UBND thị xã D khen tặng có thành tích phát hiện, đấu tranh phòng chống tội phạm”, riêng bị cáo L không bổ sung tài liệu mới. Nhận thấy: trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Phi L là người rủ các bị cáo T, Th đá gà thắng thua bằng tiền tại địa điểm bên hông nhà của gia đình bị cáo L, đồng thời bị cáo L cung cấp băng keo, cân và làm trọng tài và trực tiếp tiếp thoả thuận khi đá gà bên nào thắng L lấy tiền xâu 300.000 đồng; bản thân bị cáo L có 01 tiền sự về hành vi “Xâm phạm sức khoẻ người khác”. Bị cáo Trần Văn Th là người liên lạc rủ bị cáo Ng1, bị cáo Th là người chuẩn bị công cụ phạm tội (mang theo con gà đá) và sử dụng số tiền nhiều hơn so với các bị cáo khác, bản thân bị cáo Th từng chấp hành án về tội “Cướp giật tài sản”, tuy bị cáo Th có bổ sung tài liệu nhưng cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của các bị cáo, tuyên xử mỗi bị cáo 08 tháng tù là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Phi L và Trần Văn Th; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HS-ST ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo L không tranh luận; bị cáo Th xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo nói lời nói sau cùng:

Bị cáo L, bị cáo là lao động chính trong gia đình, cha mẹ bị cáo đã già, chị gái đi lấy chồng xa, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chăm sóc gia đình.

Bị cáo Th mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo, vì gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, mẹ bị cáo bị bệnh đã lâu, một mình vợ bị cáo nuôi 03 con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phi L và bị cáo Trần Văn Th được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L và bị cáo Th thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã xác định. Lời thừa nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 13 giờ ngày 03/7/2021, tại bãi đất trống, bên hông trong khuôn viên nhà bà Đỗ Thị Ng (mẹ của bị cáo Nguyễn Phi L), số 28/17/7C, đường X, tổ 23, khu phố Th, phường D1, thành phố D, tỉnh Bình Dương; Nguyễn Phi L làm trọng tài, cung cấp băng keo, cân gà, nước phục vụ cho các bị cáo Đặng Uyên Ng1, Trần Văn Th, Đào Minh T, Trần Vũ Đức B đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằng tiền. Các bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc tổng cộng là 10.000.000 đồng (trong đó Th: 4.500.000 đồng, Ng1: 500.000 đồng, T: 4.000.000 đồng và B:

1.000.000 đồng). Các bị cáo thỏa thuận bên nào thắng sẽ trả cho L 300.000 đồng. Bị cáo Lê Văn N biết các bên đá gà thắng thua bằng tiền nhưng giúp bị cáo T băng cựa gà, thả gà cho đá, nếu nhóm T thắng sẽ trả cho Ngọc 50.000 đồng đến 100.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã xét xử các bị cáo L, Th, Ng1, T, B và Ngọc về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Phi L và bị cáo Nguyễn Văn Th, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong vụ án, mặc dù bị cáo L không phải là người trực tiếp đánh bạc nhưng bị cáo là người liên hệ, rủ rê bị cáo Th tham gia đánh bạc, đồng thời làm trọng tài, chuẩn bị địa điểm, công cụ để đánh bạc, do đó, bị cáo L đồng phạm với các bị cáo khác về tội đánh bạc với vai trò là người giúp sức tích cực cho việc phạm tội của bị cáo khác. Bị cáo L có nhân xấu, bị xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm sức khoẻ người khác, chưa hết thời hạn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bị cáo tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả xảy ra, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như xem xét nhân thân, hoàn cảnh của các bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt và đã xử phạt bị cáo L và bị cáo Th 8 (tám) tháng tù là phù hợp. Tại phiên toà phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới cho bị cáo. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo L.

Bị cáo Trần Văn Th là người rủ rê bị cáo Ng đánh bạc, chuẩn bị công cụ phạm tội (mang theo con gà đá) và sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn so với các bị cáo khác, bản thân bị cáo Th từng chấp hành án về tội “Cướp giật tài sản”, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 8 tháng tù, không cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Th cung cấp Giấy khen ngày 02/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã Dĩ An (nay là thành phố D) tặng thưởng cho bị cáo Th đã có thành tích, phát hiện đấu tranh phòng chống tội phạm nên có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Th về giảm nhẹ hình phạt.

[5] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận một phần.

[6] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Án phí phúc thẩm: bị cáo L phải nộp án phí phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận; bị cáo Th không phải nộp án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phi L. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố D như sau:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phi L phạm tội “Đánh bạc” Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi L 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ 01 ngày (03/7/2021).

2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Văn Th. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố D như sau:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Đánh bạc” Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Th 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ 01 ngày (03/7/2021).

3. Án phí hình sự phúc thẩm: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Phi L phải chịu 200.000 đồng. Bị cáo Trần Văn Th không phải chịu án phí.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 149/2022/HS-PT

Số hiệu:149/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về