TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 138/2023/HS-PT NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 118/2023/TLPT-HS ngày 21 tháng 8 năm 2022 do có kháng cáo của các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Minh C, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Ấp N, xã B1, thị xã K, tỉnh Long An; tạm trú: Khu phố 8, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Đinh Thị T2; bản thân chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2022 cho đến nay, có mặt.
2. Lê Trường H, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Ấp 3, xã B3, huyện B, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê H A và bà Nguyễn Thị Ngọc D; bản thân chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Bản án số 70/2007/HSST ngày 16/5/2007, Toà án nhân dân huyện B4, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Lê Trường H 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; tại Quyết định số 1435/QĐ-UB ngày 27/6/2018, Ủy ban nhân dân huyện B xử phạt Lê Trường H số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh tại ngoại cho đến nay, có mặt.
3. Huỳnh Văn T, sinh năm 1993. Nơi cư trú: Ấp 5, xã B3, huyện B, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn P và bà Võ Thị Mỹ L; bản thân có vợ tên Thái Thị H1 và có 01 người con sinh năm 2021; tiền sự: Không; tiền án: Tại Bản án số 81/2021/HS-ST ngày 12/11/2021, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An xử phạt Huỳnh Văn T số tiền 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh tại ngoại cho đến nay, có mặt.
4. Lê Tấn Vy M, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Ấp 2, xã M1, huyện B, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn Đ (chết) và bà Trần Thị Kim T3; có vợ tên Nguyễn Thị Thu N1 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 25/2010/HSPT ngày 16/3/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt Lê Tấn Vy M 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh tại ngoại cho đến nay, có mặt.
Ngoài ra, còn có 01 bị cáo khác là Huỳnh Minh H2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như: Trần Văn T4, Lê Văn T1, Kiều Tấn M2, Nguyễn Công L1, Võ Thị Thùy D1, Trần Thị Kim T3, không có liên quan đến kháng cáo không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 01/7/2022, Huỳnh Minh H2 rủ Lê Minh C và người thanh niên tên H (không rõ nhân thân, địa chỉ) bàn bạc, thống nhất tổ chức đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức cá cược đá gà dựa trên kết quả trận đấu gà trên mạng Internet. H2 sử dụng phần đất phía sau nhà của H2 ngụ tại ấp 3, xã M1, huyện B và cung cấp Tivi, máy tính xách tay hiệu Asus; C có nhiệm vụ kết nối đường truyền Internet; còn H sẽ đăng nhập vào Trang web cá cược đá gà mạng “SV388” nhận phát trực tiếp trận gà các nước “Campuchia” hay “Philippines” từ người tên Ân (không rõ nhân thân, địa chỉ) qua Tivi để cho những người tham gia đánh bạc xem và nhập số tiền khách tham gia vào máy (01 USD trong máy tương đương 100.000 đồng); C giữ tiền để thanh toán tiền thắng thua với khách nếu khách thắng 1.000.000 đồng thì lấy 10.000 đồng “tiền xâu” bỏ vào thùng giấy Carton sữa Vinamilk được quấn kín bằng băng keo trên nắp thùng có tạo 01 khe hở để bỏ tiền vào, “tiền xâu” sẽ chia cho H2 ½ vào sáng thứ 2, còn ½ chia cho C và H. Cách tính tiền được thua thì tùy vào trận cược mà máy tính sẽ hiển thị số tiền thắng hoặc thua.
Khoảng 11 giờ ngày 09/7/2022, C điều khiển xe Yamaha Exciter biển số 62N1-175.** chở H đến nhà H2, khi đi H chuẩn bị 90.000.000 đồng để bên trong túi xách đưa cho C sử dụng vào mục đích tổ chức đánh bạc. Tại đây, H sử dụng máy vi tính Asus đăng nhập Trang web “SV388” cho khoảng 10 người (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tham gia, còn C lấy 50.000.000 đồng trong túi xách để trên bàn chuẩn bị thanh toán cho những người tham gia đánh bạc, chơi liên tục đến khoảng 13 giờ thì nghỉ giải lao. Khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày, H2, C và H tiếp tục đăng nhập vào Trang mạng “SV388” để tổ chức cho những người tham gia đánh bạc cá cược. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, trực tiếp từ trường gà “Campuchia” giữa gà nòi quấn băng keo đỏ “Meron” đá với gà nòi quấn băng keo xanh “Wala”. Lê Tấn Vy M hùn tiền với Lê Trường H, Huỳnh Văn T số tiền 10.000.000 đồng (H 5.000.000 đồng, T 2.000.000 đồng và Minh 3.000.000 đồng) tham gia đặt cược gà nòi quấn băng keo đỏ “Meron”; Trần Văn T4 tham gia đặt cược gà nòi quấn băng keo xanh “Wala” số tiền 2.000.000 đồng. Kết quả, nhóm của Minh, H và T thua số tiền 10.000.000 đồng, T4 thắng được số tiền 1.650.000 đồng. Chuẩn bị vào trận mới thì lực lượng Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền: 40.000.000 đồng để trong túi xách; 14.000.000 đồng trên bàn máy vi tính; 4.510.000 đồng (tiền xâu) trong thùng giấy Carton sữa Vinamilk; 01 Tivi VTB 49 Inch; 01 máy tính hiệu Asus; 01 Modum kết nối đường truyền Wifi.
Ngoài ra, khoảng 15 giờ ngày 09/7/2022, Lê Văn T1 tham gia bắt cược 02 trận gà với số tiền 2.000.000 đồng, T1 thua hết số tiền 2.000.000 đồng thì không tham gia đặt cược nữa. Đến khoảng 16 giờ 45 phút, chuẩn bị vào trận mới thì lực lượng Công an bắt quả tang.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An đã quyết định:
1. Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Minh H2, Lê Minh C phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Minh H2 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/7/2022.
Xử phạt: Bị cáo Lê Minh C 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/7/2022;
Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam các bị cáo Huỳnh Minh H2, Lê Minh C 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (là ngày 14/7/2023) để đảm bảo thi hành án.
2. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Lê Trường H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn Vy M 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo.
Ngày 19 tháng 7 năm 2023 bị cáo Lê Tấn Minh Vy kháng cáo đề nghị được hưởng án treo.
Ngày 20 tháng 7 năm 2023, bị cáo Lê Trường H kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, bị cáo Huỳnh Văn T kháng cáo đề nghị được hưởng án treo.
Ngày 27 tháng 7 năm 2023 bị cáo Lê Minh C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M đều thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như cấp sơ thẩm đã xét xử và xác định Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Minh C phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và các bị cáo Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M phạm tội “Đánh bạc” là đúng, không oan. Bị cáo Huỳnh Văn T có thay đổi nội dung kháng cáo yêu cầu được giảm nhẹ hình phạt. Do mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là nặng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo đối với các bị cáo.
Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
- Về tố tụng: Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M thực hiện kháng cáo đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là đúng thẩm quyền.
- Về nội dung: Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M đều thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như cấp sơ thẩm đã xét xử và xác định Tòa án sơ thẩm xét xử các bị cáo Lê Minh H2, Lê Minh C phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại các điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt: Các bị cáo Lê Minh H2, Lê Minh C mỗi bị cáo 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Bị cáo Huỳnh Văn T02 năm 6 tháng tù và các bị cáo Lê Trường H, Lê Tấn Vy M mỗi bị cáo 02 năm tù về tội “Đánh bạc”. Các bị cáo Lê Minh C và Huỳnh Văn Tkháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Lê Tấn Vy M kháng cáo yêu cầu hưởng án treo. Bị cáo Lê Trường H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Xét yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Minh C và Lê Trường H và Huỳnh Văn T: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Tcó tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, các bị cáo C và H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo kháng cáo không bổ sung tình tiết mới ngoài các tình tiết cấp sơ thẩm áp dụng. Đối với bị cáo C, mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng là mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đối với các bị cáo Lê Trường H, Huỳnh Văn Tbị truy tố về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 3 năm đến 7 năm tù, mà Tòa án cấp sơ thẩm cá thể hóa vai trò từng bị cáo trong vụ án đồng phạm để xác định hành vi của các bị cáo là ít nghiêm trọng để áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo là không có căn cứ. Tuy nhiên, các bị cáo không bị kháng cáo, kháng nghị tăng nặng hình phạt nên cấp phúc thẩm xét xử không làm bất lợi đối với các bị cáo. Do đó, các bị cáo H, T yêu cầu giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ nên không chấp nhận.
Xét yêu cầu được hưởng án treo của các bị cáo Lê Trường H và Lê Tấn Vy M. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, mà phạm tội lần này thuộc trường hợp nghiêm trọng nên các bị cáo không đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 bộ luật Hình sự. Nên các bị cáo kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo là không có căn cứ.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo. Các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo biết mình vi phạm pháp luật, đề nghị Hồi đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M kháng cáo trong thời hạn của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo trình tự thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Trường H vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của bị cáo Lê Trường H không trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 351 thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra trước phiên tòa phúc thẩm, thể hiện: ngày 01/7/2022, bị cáo C, người tên H (không rõ nhân thân, địa chỉ) và bị cáo H2 cùng nhau bàn bạc thống nhất việc tổ chức đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức cá cược đá gà dựa trên kết quả trận đấu gà trên mạng Internet. Bị cáo H2 sử dụng phần đất phía sau nhà của H2 ngụ tại ấp 3, xã M1, huyện B và cung cấp Tivi, máy tính xách tay hiệu Asus; bị cáo C có nhiệm vụ kết nối đường truyền Internet, nhận tiền và C tiền cho người đánh bạc; còn H trực tiếp đăng nhập vào Trang web cá cược đá gà mạng “SV388” nhận phát trực tiếp trận gà các nước “Campuchia” hay “Philippines” qua Tivi để cho những người tham gia đánh bạc xem và nhập số tiền khách tham gia vào máy (01 USD trong máy tương đương 100.000 đồng); C giữ tiền để thanh toán tiền thắng thua với khách nếu khách thắng 1.000.000 đồng thì lấy 10.000 đồng “tiền xâu” bỏ vào thùng giấy Carton sữa Vinamilk được quấn kín bằng băng keo trên nắp thùng có tạo 01 khe hở để bỏ tiền vào, “tiền xâu” sẽ chia cho H2 ½ vào sáng thứ 2, còn ½ chia cho C và H. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09/7/2022, trực tiếp từ trường gà “Campuchia” giữa gà nòi quấn băng keo đỏ “Meron” đá với gà nòi quấn băng keo xanh “Wala”. Lê Tấn Vy M hùn tiền với Lê Trường H, Huỳnh Văn Tsố tiền 10.000.000 đồng (H 5.000.000 đồng, T2.000.000 đồng và Minh 3.000.000 đồng) tham gia đặt cược gà nòi quấn băng keo đỏ “Meron”; Trần Văn T4 tham gia đặt cược gà nòi quấn băng keo xanh “Wala” số tiền 2.000.000 đồng. Kết quả, nhóm của Minh, H và Tthua số tiền 10.000.000 đồng, Tâm thắng được số tiền 1.650.000 đồng; chuẩn bị vào trận gà mới thì bị lực lượng Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 54.000.000 đồng; tiền xâu đựng trong thùng giấy Carton sữa Vinamilk 4.510.000 đồng. Hành vi của bị cáo C và đối tượng tên H giữ vai trò đứng ra tổ chức, nhận tiền và C tiền thắng thua với người tham gia đánh bạc; còn bị cáo H2 sử dụng địa điểm do bị cáo quản lý, chuẩn bị công cụ, phương tiện gồm:
Tivi, máy tính xách tay; mạng Wifi kết nối đường truyền Internet từ máy tính xách tay sang màn hình Tivi cho những người đánh bạc xem và cá cược nên thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo H, T, Minh cùng nhau tham gia đánh bạc bằng hình thức trực tuyến, cá cược gà nòi quấn băng keo đỏ “Meron” với số tiền 10.000.000 đồng (H 5.000.000 đồng, T2.000.000 đồng và Minh 3.000.000 đồng) nên thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Do dó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xác định b ị cáo T có tình tiết tăng nặng thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Lê Tấn Vy M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo C, H, T, M đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, các bị cáo C, H, T, M có hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo T, Minh là lao động chính của gia đình, đang nuôi con nhỏ; bị cáo C, H là lao động chính của gia đình, đang nuôi cha mẹ già; bị cáo M và bị cáo T có gia đình có công với cách mạng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt: Bị cáo Lê Minh C 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; bị cáo Huỳnh Văn T 02 năm 6 tháng tù và các bị cáo Lê Trường H, Lê Tấn Vy M mỗi bị cáo 02 năm tù về tội “Đánh bạc”. Các bị cáo Lê Minh C, Huỳnh Văn T kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Lê Tấn Vy M kháng cáo yêu cầu hưởng án treo. Bị cáo Lê Trường H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
[5] Xét yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Minh C: Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra cũng là mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Bị cáo kháng cáo không bổ sung tình tiết mới quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[6] Xét yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Trường H và Huỳnh Văn T: Các bị cáo bị truy tố về tội “Đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 3 năm đến 7 năm tù, mà Tòa án cấp sơ thẩm cá thể hóa vai trò từng bị cáo trong vụ án đồng phạm để xác định hành vi của các bị cáo là ít nghiêm trọng và áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo là không có căn cứ. Tuy nhiên, các bị cáo không bị kháng cáo, kháng nghị tăng nặng hình phạt nên cấp phúc thẩm xét xử không làm bất lợi đối với các bị cáo. Do đó, các bị cáo H, T yêu cầu giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[7] Xét yêu cầu được hưởng án treo của bị cáo Lê Trường H và Lê Tấn Vy M: Đối với các bị cáo đều có nhân xấu, mà lần này các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 3 đến 7 năm tù, thuộc trường hợp nghiêm trọng, nên theo quy định tại điểm a mục 1 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo thì các bị cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.
[8] Từ những phân tích trên, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, về hình phạt đối với các bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp.
[9] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
[10] Các khoản khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Long An, về hình phạt đối với các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M.
1.1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh C phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Minh C 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/7/2022;
Căn cứ Điều 347 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Minh C 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày 26/9/2023 để đảm bảo thi hành án.
1.2. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Trường H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn Vy M 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2022 đến ngày 15/7/2022.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 củ Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Lê Minh C, Lê Trường H, Huỳnh Văn T, Lê Tấn Vy M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các khoản khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật sau khi hết thời gian kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội đánh bạc số 138/2023/HS-PT
Số hiệu: | 138/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về