TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thị xã S, Thành phố H đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2022/TLST - HS ngµy 30 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:
Đào Thị T, sinh năm 1959, tại thị xã S, H; Nơi đăng ký thường trú và sinh sống: Số 14/71 phố H, phường T, S, H; nghề nghiệp: Hưu trí; trình độ văn hoá: Lớp 10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Đào Đức A và bà Nguyễn Thị T (Đều đã chết); Có chồng Nguyễn Văn H và có hai con; Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/9/2022 đến ngày 26/9/2022 tại ngoại; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Nguyễn Hoài N, sinh năm 1972; Trú tại: Ngõ 414 đường T, phường T, thị xã S, Thành phố H; vắng mặt.
+ Trần Nguyệt H, sinh năm 1995; Trú tại: Khu A tập thể Z151 T, xã M, S, H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 17 giờ 45 phút ngày 23/9/2022, tại trước cửa số 275 phố Lê Lợi, phường Lê Lợi, S, H tổ công tác Đội CSĐTTP về TTXH Công an TX S phát hiện bắt quả tang Đào Thị T đang có hành vi bán số lô, số đề cho Nguyễn Hoài N và Trần Nguyệt H.
Tang vật thu giữ: Thu của Đào Thị T:
Số tiền 10.090.000 đồng (Mười triệu không trăm chín mươi nghìn đồng), 01 (Một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime màu xám đen, số IMEI1: 353415080782967, số IMEI2: 353416080782965, bên trong lắp sim số: 035823xxxx, điện thoại đã qua sử dụng, 01 (Một) bảng phơi có kích thước 18x15cm được cắt ra từ khổ giấy A4, trên giấy ghi các số lô, đề (ký hiệu B1), (Một) bảng phơi được xe ra từ tờ lịch treo tường, hình chữ nhật, kích thước 12.5x8cm, trên giấy ghi các số lô, đề (ký hiệu B2); 01 (Một) ghế tựa bằng sắt, chiều cao 1m, chiều rộng 40cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) bàn gỗ gập chiều dài 70cm, chiều rộng 40cm, chiều cao 75cm, đã qua sử dụng; 01 (Một) kéo bằng kim loại, có tay cầm bằng nhựa, đã qua sử dụng; 01 (Một) bút bi nhãn hiệu thiên long, ngòi mực xanh, đã qua sử dụng;
01 túi xách màu tím than, có quai cầm tay, bên ngoài có các hình ngôi sao nhỏ màu trắng, đã qua sử dụng.
Thu của Nguyễn Hoài N: 01 (một) tờ giấy tích kê hình vuông, trên mặt giấy trắng có ghi chữ, số: “ 030 = 120N; Lô 030 = 60N ” ghi ngày 23/9, chữ ký của bà Đào Thị T; 01 (một) tờ tích kê hình vuông, trên mặt giấy trắng có ghi chữ, số: “ 171 = 120N ” ghi ngày 23/9, chữ ký của Đào Thị T.
Thu của Trần Nguyệt H: 01 (một) tờ giấy tích kê hình vuông, trên mặt giấy trắng có ghi chữ, số: “ 080-77= 120N , Lô 080-77 = 40N ” ghi ngày 23/9/2022, chữ ký của bà Đào Thị T.
Tại Cơ quan điều tra Đào Thị T khai nhận: Theo thỏa thuận giữa Đào Thị T và 1 người phụ nữ không quen biết, chỉ giao dịch gặp nhau lúc chiều tối ở khu vực chợ đêm Phú Hà lúc 16 giờ 30 hàng ngày. Theo thỏa thuận ban đầu người phụ nữ đưa cho T 5 triệu đồng để hàng ngày T ghi số lô số đề sau đó chuyển cho chị ta, sau khi có kết quả mở thưởng sẽ tính số tiền T phải trả và được hưởng và hẹn gặp nhau thanh toán vào buổi chiều các ngày tại địa điểm trên. Theo đó hàng ngày T cứ ghi số lô đề rồi chuyển cho người phụ nữ gặp trên đường. Ngày 23/9/2022 khoảng 17 giờ, T mang bàn ghế ra trước cửa nhà ngồi xem ai có nhu cầu mua số lô số đề thì bán kiếm lời đến khoảng 17 giờ 30 phút thì có Nguyễn Hoài N đến hỏi mua số lô, số đề của T. Đào Thị T đã bán cho anh Nguyễn Hoài N các số lô 03-30 mỗi số 60 điểm (1 điểm tương ứng với 20.000 đồng) = 2.400.000 đồng, các số đề 03-30-17-71 mỗi số 100.000 đồng = 400.000 đồng. Bà Đào Thị T khuyến mại thêm mỗi số đề bán cho anh N là 20.000 đồng và chỉ có giá trị khi trúng thưởng số đề. Số tiền lô, đề bà T đã bán cho anh N ngày 23/9/2022 là: 2.800.000 đồng.
Ngay sau đó có Trần Nguyệt H cũng hỏi mua số lô số đề, Đào Thị T đã bán cho chị H các số lô: 08-80-77 mỗi số 40 điểm, (1 điểm tương ứng với 20.000 đồng) = 2.400.000 đồng, các số đề: 08-80-77 mỗi số 100.000 đồng = 300.000 đồng. Bà Đào Thị T khuyến mại thêm mỗi số đề bán cho chị H là 20.000 đồng và chỉ có giá trị khi trúng thưởng số đề. Số tiền lô, đề bà T đã bán cho chị H ngày 23/9/2022 là: 2.800.000 đồng.
Tổng số tiền bà Đào Thị T đã bán số lô, số đề cho anh Nguyễn Hoài N và chị Trần Nguyệt H như nêu trên là: 5.500.000 đồng.
Ngày 06/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an TX S đã ra Quyết định số:
415/QĐ-CQĐT trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định tài liệu đối với 02 tờ bảng cáp do Cơ quan Công an thu giữ của bà Đào Thị T.
Ngày 11/11/2022, Viện khoa học hình sự Bộ Công an đã ra Bản kết luận giám định số: 6740/KL-KTHS kết luận:
“5.1. Chữ viết cần giám định trên các mẫu ký hiệu từ A1 đến A4 và các chữ “180N23/9 09607” ở góc dưới, bên phải mẫu cần giám định ký hiệu A5 so với chữ viết của Đào Thị T trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M6 do cùng một người viết ra.
5.2. Chữ viết cần giám định trên mẫu ký hiệu A5 (trừ chữ viết đã kết luận ở mục 5.1) so với chữ viết của Đào Thị T trên các mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M6 không phải do cùng một người viết ra”.
Đối với hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề của Nguyễn Hoài N và Trần Nguyệt H chưa cấu thành tội phạm, do đó ngày 10/10/2022 Công an TX S đã ra Quyết định xử phạt VPHC bằng hình thức phạt tiền, mức phạt:
200.000 đồng đối với Nguyễn Hoài N và Trần Nguyệt H theo quy định tại khoản 1 điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ.
Đối với 01 người nữ giới và những người N giới khác đã mua số lô, đề ngày 23/9/2022 của bà Đào Thị T, do bà Đào Thị T không quen biết, không rõ tên thật, năm sinh, địa chỉ và không có tài liệu khác về người này, do đó không có căn cứ để xác định con người, nhân thân lại lịch cụ thể, vì vậy không có căn cứ để xử lý.
Về vật chứng: Tích kê và bảng phơi, Cơ quan điều tra chuyển theo hồ sơ vụ án, còn lại số tiền 10.090.000 đồng và các vật chứng khác sử dụng để mua bán số lô số đề, chuyển đến Cơ quan Thi hành án dân sự thị xã S để bảo quản và xử lý theo quy định.
Tại cơ quan điều tra Đào Thị T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại bản cáo trạng số 122/CT-VKSPT ngày 28 tháng 11 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã S, Thành phố H truy tố Đào Thị T về “Tội Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo T cũng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã S luận tội, giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố Đào Thị T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng Cải tạo không giam giữ về Tội đánh bạc; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 8.447.000 đồng là tiền bị cáo T đánh bạc với Nguyễn Hoài N, Trần Nguyệt H, một số phụ nữ và đàn ông khác ngày 23/9/2022 mà có; Trra lại cho bị cáo T số tiền 1.643.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo vì không liên quan đến hành vi đánh bạc; Tịch thu tiêu hủy 1 ghế tựa bằng sắt, một bàn ghỗ gập, 1 bút bi Thiên Long, 1 túi xách màu tím than vì không còn giá trị sử dụng, bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Sau khi nghe luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã S, bị cáo T không tự bào chữa, không tranh luận, đối đáp gì với đại diện Viện Kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã S, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thị xã S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T không có khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên toà, bị cáo Đào Thị T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ khẳng định:
Ngày 23/9/2022 Đào Thị T đã có hành vi bán số lo, số đề cho Nguyễn Hoài N, Trần Nguyệt H, một số phụ nữ và đàn ông khác với tổng số tiền là 8.447.000đồng thì bị Đội CSĐTTP về TTXH Công an thị xã Sơn phát hiện bắt quả tang.
[3]. Hành vi của Đào Thị T đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề cho Nguyễn Hoài N, Trần Nguyệt H, với một số phụ nữ và đàn ông khác ngày 23/9/2022 tổng cộng số tiền là 8.447.000 đồng, đã cấu thành Tội đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Nên có đủ căn cứ khẳng định Viện Kiểm sát nhân dân thị xã S, Thành phố H truy tố bị cáo Đào Thị T về tội danh và viện dẫn điều luật nêu trong cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, gây mất trật tự tại địa phương, vì vậy cần phải xử bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Xét thấy, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo T có thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền đánh bạc không lớn, tuổi bị cáo đã cao, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có thu nhập ổn định, bố bị cáo có Huân chương kháng chiến, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến nay luôn chấp hành tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước, nên xử cho bị cáo mức hình phạt Cải tạo không giam giữ theo qui định tại Điều 36 của Bộ luật hình sự để thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm và ổn định cuộc sống.
[4]. Về áp dụng hình phạt bổ sung: Bị cáo là công nhân về hưu mức lương dưới 300.000đồng/1 tháng, lại phạm tội lần đầu, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về khấu trừ thu nhập: Do bị cáo thu nhập thấp nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
[5]. Đối với Nguyễn Hoài N và Trần Nguyệt H đã có hành vi mua số lô và số đề của bị cáo T vào ngày 23/9/2022 là hành vi đánh bạc, nhưng chưa có kết quả xổ số Miền Bắc thì bị Công an bắt. Theo hướng dẫn tại điểm b mục 5.1 khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo thì xác định số tiền của Nguyễn Hoài N sử dụng để đánh bạc là 2.800.000đồng và số tiền của Trần Nguyệt H dùng để đánh bạc là 2.800.000đồng. Số tiền N và H đánh bạc đều ở mức dưới 5 triệu đồng, các đối tượng chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính về hành vi Đánh bạc, Gá bạc, Tổ chức đánh bạc, nên hành vi của N và H không cấu thành tội phạm. Công an thị xã S đã xử phạt hành chính đối với N và H là đúng quy định của pháp luật.
Đối với một số phụ nữ và đàn ông khác đã mua số lô, số đề của T vào ngày 23/9/2022, do bị cáo T không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể của những người này. Vì vậy, không có căn cứ để xem xét, xử lý theo pháp luật.
[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền thu giữ 10.090.000 đồng, xác định số tiền tiền bị cáo T bán số lô số đề ngày 23/9/2022 mà có là 8.447.000 đồng nên cần tịch thu nộp NSNN. Số tiền còn lại 1.643.000 đồng là tiền của bị cáo không liên quan hành vi đánh bạc nên trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 chiếc một điện thoại SamSung Galaxy J7 Prime màu xám đen, số imei : 353415080782967, số imei 2: 353416080782965, lắp sim số 035823xxxx là điện thoại của bị cáo chưa sử dụng vào việc ghi số lô, số đề nên trả lại cho bị cáo; Đối với một ghế tựa bằng sắt, chiều cao 1m, chiều rộng 40cm; một bàn gỗ gập chiều dài 70cm, chiều rộng 40cm, chiều cao 75cm; một kéo bằng kim loại, có tay cầm bằng ngựa; một bút bi nhãn hiệu Thiên Long, ngòi mực xanh và một túi xách màu tím than, có quai cầm tay, bên ngoài có hình sao nhỏ màu trắng thu của Đào Thị T không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51và Điều 36 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Đào Thị T 12 (Mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ về Tội đánh bạc. Được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/9/2022 đến ngày 26/9/2022 bằng 09 (Chín) ngày Cải tạo không giam giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành là 11 tháng 21 ngày. Thời gian chấp hành hình phạt Cải tạo không giam giữ kể từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được bản sao bản án hoặc quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Đào Thị T cho Uỷ ban nhân dân phường T, thị xã S, Thành phố H giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 8.447.000 đồng (Tám triệu bốn trăm bốn mươi bảy nghìn đồng); Trả lại cho bị cáo T số tiền 1.643.000đồng (Một triệu sáu trăm bốn mươi ba nghìn đồng) + một điện thoại SamSung Galaxy J7 Prime màu xám đen, số imei : 353415080782967, số imei 2: 353416080782965, lắp sim số 035823xxxx; Tịch thu tiêu hủy một ghế tựa bằng sắt, chiều cao 1m, chiều rộng 40cm; một bàn gỗ gập chiều dài 70cm, chiều rộng 40cm, chiều cao 75cm; một kéo bằng kim loại, có tay cầm bằng ngựa; một bút bi nhãn hiệu Thiên Long, ngòi mực xanh và một túi xách màu tím than, có quai cầm tay, bên ngoài có hình sao nhỏ màu trắng.
(Chi tiết vật chứng theo như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/12/2022 và Giấy ủy nhiệm chi lập ngày 07/12/2022 giữa Công an thị xã S và Chi cục thi hành án dân sự thị xã S, Thành phố H).
3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội đánh bạc số 124/2022/HS-ST
Số hiệu: | 124/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về