TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 123/2022/HS-PT NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 13 tháng 6 năm 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 233/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án số: 125/2021/HS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị T sinh năm 1981 tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký thường trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh An Giang; nơi đăng ký tạm trú: khu phố 5, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Mật sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị C sinh năm 1953; có chồng nhưng đã ly hôn và có 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 25 tháng 12 năm 2020 đến ngày 04 tháng 01 năm 2021; bị cáo tại ngoại; có mặt.
Ngoài ra, còn có 03 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 25 tháng 12 năm 2020, Nguyễn Thị T đang ở nhà trọ tại khu phố 5, phường U, thị xã T thì Lê Thanh Ta, Nguyễn Thanh Minh H, Đỗ Thanh S đến chơi. Trong lúc ngồi chơi, T rủ Ta, H, S tham gia đánh bài tứ sắc. T đi bộ đến tiệm tạp hóa gần nhà trọ mua một bộ bài tứ sắc rồi cùng nhau đánh bạc, mỗi ván cược từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an phường U tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trên chiếu bạc gồm: số tiền 6.450.000 đồng, 01 bộ bài tứ sắc đã qua sử dụng và 01 chiếc chiếu màu vàng.
Ngoài ra, Công an phường U còn thu giữ trên người Nguyễn Thị T số tiền 2.200.000 đồng, Lê Thanh Ta số tiền 2.040.000 đồng, Đỗ Văn S số tiền 630.000 đồng và Nguyễn Thanh Minh H số tiền 260.000 đồng.
Quá trình điều tra các bị cáo khai như sau:
Nguyễn Thị T khai sử dụng số tiền 3.500.000 đồng để đánh bạc và thua 600.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ tại vị trí ngồi số tiền 700.000 đồng, bị thu giữ trên người 2.200.000 đồng.
Lê Thanh Ta khai mang theo số tiền 3.000.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Ta thắng 90.000 đồng nên bị thu giữ tại vị trí ngồi số tiền 1.050.000 đồng, bị thu giữ trên người 2.040.000 đồng.
Đỗ Văn S khai mang theo số tiền 2.580.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, S thua 1.850.000 đồng nên bị thu giữ tại vị trí ngồi số tiền 100.000 đồng, bị thu giữ trên người 630.000 đồng.
Nguyễn Thanh Minh H khai mang theo số tiền 2.500.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H thắng số tiền 2.360.000 đồng nên bị thu giữ tại vị trí ngồi số tiền 4.600.000 đồng, bị thu giữ trên người 260.000 đồng.
Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của các bị cáo, tổng số tiền sử dụng để đánh bạc vào ngày 25 tháng 12 năm 2020 được xác định là 11.580.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 125/2021/HS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã quyết định.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 25 tháng 12 năm 2020 đến ngày 04 tháng 01 năm 2021.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lê Thanh Ta 35.000.000 đồng, bị cáo Đỗ Văn S 35.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thanh Minh H 35.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 19 tháng 10 năm 2021, Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến: đơn kháng cáo của bị cáo được thực hiện trong hạn luật định. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cấp sơ thẩm đã xét xử, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo như cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới là con gia đình có công có ông, bà nội được tặng thưởng Huân, Huy chương khánh chiến chống Mỹ cứu nước. Trong vụ án, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo nhất thời phạm tội, sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền dùng vào đánh bạc không lớn, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù đối với bị cáo là nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tiền mức phạt từ 40.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng.
cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng: mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị .
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bị cáo thực hiện trong thời hạn luật định, hợp lệ nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm xác định. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại nhà trọ của bị cáo Nguyễn Thị T thuộc khu phố 5, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bị cáo T cùng Lê Thanh Ta, Đỗ Văn S và Nguyễn Thanh Minh H đã thực hiện hành vi đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 11.580.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc, sát phạt lẫn nhau được, thua bằng tiền là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vì muốn chiếm đoạt tiền của nhau nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả.
[5] Xét kháng cáo của bị cáo: Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo kháng cáo tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới bị cáo là con gia đình có công với cách mạng có ông nội Nguyễn Văn S, bà nội Phạm Thị N được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến. Trong vụ án bị cáo dùng số tiền đánh bạc không lớn, nhất thời phạm tội, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù đối với bị cáo là nghiêm khắc. Do đó, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là phù hợp và có căn cứ việc áp dụng chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đảm bảo tính răn đe và đáp ứng được tình hình phòng, chống tội phạm tại địa phương nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo.
[6] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo sửa bản án sơ thẩm chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tiền là phù hợp.
[7] Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 344, Điều 345, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 125/2021/HS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35;
Điều 58 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải nộp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 123/2022/HS-PT
Số hiệu: | 123/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về