Bản án về tội đánh bạc số 120/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N B , TỈNH N B

BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 21 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N B, tỉnh N B; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2019/QĐXXST- HS ngày 7 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đặng Mạnh T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1969; Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đông Thành, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam;

Là đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ công ty cổ phần thương mại thành phố N B - trực thuộc Thành ủy thành phố N B; đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; con ông: Đặng Văn H (đã chết); và bà Hoàng Thị H (đã chết); Gia đình có năm chị em, bị cáo là con thứ năm; Vợ: Lê Thị Như H; Có một con sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự : Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Phạm Văn Th (tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1974; Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 55, ngõ 77, đường Trần Hưng Đạo, phố 10, phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phạm Văn D và bà Mai Thị L; Gia đình có bốn anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Nguyễn Thị Ch; có hai con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án: Tại bản án số 41/2018/HSST ngày 26/04/2018 Tòa án nhân dân thành phố N B xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập hàng tháng 5%; phạt bổ sung 10.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (đã thi hành xong bản án này ngày 23/7/2019).

Tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh N B cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Đặng Mạnh T (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1988; Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 30, ngõ 67, đường Trần Hưng Đạo, phố 10, phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông Đặng Xuân H và bà Mai Thị X; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ : Đỗ Thị Th ; Có một con sinh năm 2014 Tiền án: Bản án số 72/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 TAND thành phố Ninh Bình xử phạt Đặng Mạnh T 27.000.000 đồng về tội “đánh bạc”( đã thi hành án xong ngày 08/8/2019) Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay; (có mặt tại phiên tòa).

4. Họ và tên: Đặng Văn Tr (Tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1959; Nơi ĐKHKTT: số nhà 235, đường Trần Hưng Đạo, phố 5, phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B; Chỗ ở hiện nay: phố 7, phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hiện đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; Trình độ học vấn:

10/10; Nghề nghiệp: Nguyên cán bộ huyện ủy huyện H L, tỉnh N B; Con ông: Đặng Văn Y và bà: Đinh Thị M ; Gia đình có sáu chị em, bị cáo là con thứ ba; Vợ Lê Thị D; con có 04 lớn sinh năm 1979, nhỏ sinh năm 1986.

Tiền án, tiền sự : Không Bị cáo bị bắt quả tang ngày 16/5/2019, cùng ngày được trả tự do và áp dụng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt tại phiên tòa).

5. Họ và tên: Bùi Tiến D (Tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1983; Nơi ở và nơi ĐKHKTT: thôn Đông Duy, xã Yên Quang, huyện Ý Y, tỉnh N Đ ;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Bùi Duy Th và bà Đinh Thị Th; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Đinh Thị H; Có hai con: lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 05/3/2018 Công an thành phố N B ra quyết định số 92/QĐ- XPHC xử phạt hành chính phạt tiền 350.000 đồng về hành vi “đánh bạc” ( bị cáo đã thi hành xong ngày 06/3/2018).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Khúc Đình N (Tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1984; Nơi ĐKHKTT: Tổ 9, phường Th B, quận L B, thành phố H N; Chỗ ở hiện nay: phố Ph Th, phường Ph Th, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: không ; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Khúc Đình Ch và bà: Phạm Thị Kh; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Phạm Thị Kim Th; Có hai con: lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Bản án số 147 ngày 20/7/2010 TAND quận L B thành phố H N xử phạt 05 tháng tù cho hưởng án treo về tội “ Đánh bạc” thử thách 12 tháng, phạt bổ sung 5.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí. Bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách, đã nộp án phí và tiền phạt bổ sung ngày 11/3/2011 ( bị cáo đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

7. Họ và tên: Đỗ Văn V (Tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh năm 1987; Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 880, đường Trần Hưng Đạo, phố T V, phường T Th, thành phố N B, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12 ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đỗ Công M và bà Nguyễn Thị Th; Gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ : Nguyễn Bích T; Có một con sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự : không Nhân thân:

- Bản án số 173 ngày 17/12/2010 Tòa án nhân dân thành phố N B xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, 200.000 đồng án phí. Ra trại ngày 31/8/2011, nộp xong án phí ngày 26/7/2011. Bị cáo đã được xóa án tích của bản án này.

- Ngày 19/02/2010 Công an thành phố N B xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi đánh nhau, hủy hoại tài sản của người khác ( xóa án do hết thời hiệu thi hành án).

- Ngày 27/7/2013 Công an thành phố N B xử phạt hành chính 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đã nộp phạt ngày 30/7/2013).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/05/2019 đến ngày 22/05/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

- Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1990 ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th và Đặng Văn Tr có mối quan hệ họ hàng với nhau. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 16/05/2019, sau khi ăn cỗ đám cưới ở phường N Kh, thành phố N B xong, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr về nhà Đặng Mạnh T ở số nhà 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đ Th, thành phố N B uống nước. Trong khi ngồi uống nước, T nói với T, Tr và Th “Anh em mình làm tý” ý là rủ mọi người đánh bạc, cả hội đồng ý và thống nhất đánh bạc dưới hình thức “đánh phỏm”, sau đó T lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân có sẵn trong nhà ra để chơi. Hình thức chơi được T, T, Th và Tr thống nhất như sau: Người chơi dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân sau đó một người chia cho mỗi người 09 quân bài, người nào chia bài thì được 10 quân và được quyền đánh trước, số bài còn lại để ở giữa chiếu. Đánh hết số bài để ở giữa chiếu thì kết thúc ván chơi. Ai có “phỏm” thì hạ xuống, số bài còn lại trên tay được tính điểm. Ai ít điểm nhất thì thắng và được ăn cả. Người nào về nhì phải trả cho người về nhất 20.000 đồng, về ba trả 40.000 đồng, về cuối trả 60.000 đồng. Ai không có “phỏm” thì phải trả cho người về nhất 80.000 đồng. Ai “ù” (có 03 phỏm) thì những người còn lại trả cho người “ù” 100.000 đồng; ai bị ăn cây chốt phải trả 80.000 đồng. Trước khi đánh bạc T có 5.100.000 đồng sử dụng hết vào việc đánh bạc, T có 2.820.000 đồng sử dụng 2.700.000 đồng vào việc đánh bạc, còn lại 120.000 đồng T cất trong người không sử dụng vào việc đánh bạc, Th có 1.080.000 đồng sử dụng 1.000.000 đồng vào việc đánh bạc còn 80.000 đồng Th không sử dụng để đánh bạc, Tr có 3.500.000 đồng và sử dụng số tiền 1.750.000 đồng để đánh bạc, còn 1.750.000 đồng còn lại Tr cất trong người và không sử dụng vào việc đánh bạc. Khoảng 14 giờ cùng ngày, anh Phạm Ngọc T sinh năm 1990 trú tại phố Phong Sơn, phường Nam Bình, thành phố N B có quan hệ quen biết với Đặng Mạnh T, gọi điện rủ T đi uống bia nhưng T nói với T đang ở nhà người quen ở số nhà 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đ Th, thành phố N B và bảo T đến để chờ sau đó anh T đến nhà Đặng Mạnh T và thấy T, Tr, T và Th đang đánh bạc nên ngồi ngoài xem để chờ T.

Khoảng hơn 14 giờ cùng ngày, Khúc Đình N gọi điện rủ T đi uống bia, T nói đang ở số nhà 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đ Th, thành phố N B gần nhà Tuấn và bảo N đến nhà T, sau đó N đến thì gặp T, Tr, T và Th đang đánh bạc, một lúc sau Đỗ Văn V có quen biết với Đặng Mạnh T đi đến nhà T chơi và thấy T cùng T, Th và Tr đánh bạc và đứng xem. Khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, Bùi Tiến D là bạn của Phạm Ngọc T gọi điện rủ T đi uống nước nhưng anh T nói đang ở số nhà 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đông Thành, thành phố N B nên bảo D đến, khi đến nơi anh T xuống đón D lên tầng 2 nhà Đặng Mạnh T. Trong lúc đợi T, N nảy sinh ý định đánh bạc nên nói với D và V “anh em mình làm tý”, D và V hiểu ý N rủ đánh bạc nên đồng ý và cùng nhau đi sang phòng ngủ đối diện cạnh cầu thang bên phải tầng 2 nhà anh T và thống nhất đánh bạc dưới hình thức “đánh phỏm”. Do thấy bộ bài có sẵn trong phòng nên N lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân để đánh bạc, cả hội sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân sau đó một người chia cho mỗi người 09 quân bài, người nào chia bài thì được 10 quân và được đánh trước, số bài còn lại để ở giữa chiếu. Khi những người chơi đã bốc hết bốn lượt bài để giữa chiếu thì kết thúc ván chơi. Ai có “phỏm” thì hạ xuống, số bài còn lại trên tay được tính điểm. Ai ít điểm nhất thì thắng và được ăn cả, người nào về nhì phải trả cho người về nhất 20.000 đồng, về ba trả 40.000 đồng, về cuối trả 60.000 đồng. Ai không có “phỏm” thì phải trả cho người về nhất 80.000 đồng. Ai “ù” (có 03 phỏm) thì những người còn lại trả cho người “ù” 100.000 đồng; bị ăn cây chốt phải trả 80.000 đồng; ngoài ra N, D và V còn thống nhất mỗi người góp 100.000 đồng đặt ở giữa chiếu gọi là “tiền gà” nếu người chơi nào “ù” thì ngoài việc được ăn tiền như đã thống nhất còn được ăn số tiền gà. Trước khi đánh bạc N có 8.000.000 đồng, D có 3.890.000 đồng, V có 1.100.000 đồng sử dụng hết vào việc đánh bạc.

Đến hồi 15 giờ 30 phút cùng ngày khi T, T, Th, Tr, N, D, V đang đánh bạc thì bị Phòng cảnh sát hình sự công an tỉnh Ninh Bình phát hiện bắt quả tang.

Tại chiếu bạc thứ nhất cơ quan điều tra thu giữ: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu trúc màu vàng có kích thước (1,6x2)m. Tổng số tiền là 12.500.000 đồng, trong đó số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 10.550.000 đồng gồm thu giữ của Đặng Mạnh T số tiền 3.800.000 đồng, trong người là 3.500.000 đồng, trước mặt là 300.000 đồng; thu của Đặng Mạnh T số tiền 1.270.000 đồng gồm 1.150.000 đồng để trước mặt, 120.000 đồng để trong người không sử dụng để đánh bạc, 01 điện thoại hiệu Nokia màu bạc, 01 điện thoại hiệu Huawei, 01 ví da cầm tay màu nâu; thu của Phạm Văn Th số tiền 2.730.000 đồng gồm 80.000 đồng để trong người không sử dụng vào việc đánh bạc, 2.650.000 đồng để dưới chiếu, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; thu của Đặng Văn Tr số tiền 4.700.000 đồng gồm 1.750.000 đồng để trong người không sử dụng vào việc đánh bạc, 2.950.000 đồng để dưới chiếu trước mặt, 01 điện thoại hiệu Vsmart màu xanh, 01 ví da màu đen.

Tại chiếu bạc thứ hai cơ quan điều tra thu giữ: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân;

01 chiếu nhựa màu xanh kích thước (1,6x2) m; thu của Bùi Tiến D số tiền 3.090.000 đồng gồm 1.890.000 đồng để trong người, 1.200.000 đồng để dưới chiếu trước mặt, 01 điện thoại hiệu Oppo màu vàng, 01 điện thoại không có nhãn mác màu đen; thu của Khúc Đình N số tiền 9.000.000 đồng gồm trong người 6.500.000 đồng, 2.500.000 đồng dưới chiếu trước mặt, 01 ví da cầm tay màu đen, 01 điện thoại hiệu Iphone màu vàng; thu của Đỗ Văn V số tiền 900.000 đồng gồm 600.000 đồng để dưới chiếu trước mặt, 300.000 đồng tiền gà của các các đối tượng, 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen.

Qúa trình điều tra, có căn cứ xác định số tiền Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Đặng Văn Tr, Phạm Văn Th sử dụng vào việc đánh bạc là 10.550.000 đồng, gồm: thu của Toàn số tiền 3.800.000 đồng, thu của T số tiền 1.150.000 đồng, thu của Th số tiền 2.650.000 đồng, thu của Trình số tiền 2.950.000 đồng và số tiền Khúc Đình N, Bùi Tiến D, Đỗ Văn V sử dụng vào việc đánh bạc là 12.990.000 đồng, trong đó thu của V số tiền 900.000 đồng, thu của N số tiền 9.000.000 đồng, thu của D số tiền 3.090.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 117/CT-VKS ngày 06/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr, Khúc Đình N, Bùi Tiến D, Đỗ Văn V đều về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo T, Th, T, Tr, N, D, V đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo T, Th, T, Tr, N, D, V đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”; đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Th từ 8 – 10 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 16/05/2019. Phạt tiền bổ sung bị cáo từ 10.000.000 – 12.000.000 đồng để xung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321; điều 36; điểm s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Đặng Mạnh T. Xử phạt bị cáo T từ 15 – 18 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được trừ 6 ngày tạm giữ (từ 16/5/2019 đến 22/05/2019) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND phường Đ Th, thành phố N B nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo cho UBND phường Đ Th, thành phố N B nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Đ Th, thành phố N B trong việc giám sát giáo dục bị cáo Hàng tháng khấu trừ từ 5% - 6% thu nhập của bị cáo T để xung quỹ nhà nước. Phạt tiền bổ sung bị cáo từ 10.000.000 – 12.000.000 để xung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 điều 321, điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Đặng Mạnh T, xử phạt bị cáo T từ 30.000.000 – 33.000.000 đồng để xung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 điều 321, điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Đặng Văn Tr xử phạt bị cáo Trình từ 20.000.000 – 22.000.000 đồng để xung quỹ nhà nước

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321, điều 36 điểm s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Khúc Đình N. Xử phạt bị cáo N từ 9 – 12 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được trừ 6 ngày tạm giữ (từ 16/5/2019 đến 22/05/2019) quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND phường Ph Th, thành phố N B nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo cho UBND phường Ph Th, thành phố N B nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo N có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Ph Th, thành phố N B trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Hàng tháng khấu trừ từ 5% - 6% thu nhập của bị cáo N để xung quỹ nhà nước. Phạt tiền bổ sung bị cáo từ 10.000.000 – 12.000.000 để xung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, điều 321; điểm s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Đỗ Văn V. Xử phạt bị cáo V từ 27.000.000 – 30.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 điều 321, điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Bùi Tiến D. Xử phạt bị cáo D từ 25.000.000 – 27.000.000 triệu đồng để xung quỹ nhà nước.

2. Xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu xung quỹ nhà nước: số tiền 23.540.000 đồng thu của T, T, Th, Tr, N, D, V sử dụng vào việc đánh bạc.

- Trả lại cho bị cáo Đặng Mạnh T số tiền 120.000 đồng, 01 ví da cầm tay màu nâu; trả lại cho bị cáo Phạm Văn Th số tiền 80.000 đồng, 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen; trả lại cho bị cáo Đặng Văn Tr số tiền 1.750.000 đồng, 01 ví da màu đen; trả lại cho bị cáo Khúc Đình N 01 ví da cầm tay màu đen.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 chiếu trúc màu vàng kích thước (1,6x2)m, 01 chiếu nhựa màu xanh kích thước (1,6x2)m Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng các bị cáo T, Th, T, Tr, D, N, V đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của từng bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người làm chứng và tang vật thu giữ là 02 bộ bài lơ khơ 52 quân và số tiền 23.540.000 đồng ( Hai mươi ba triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng) mà các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 16/5/2019 tại nhà Đặng Mạnh T ở số 01, ngõ 130, đường Đào Duy Từ, phố 10, phường Đông Thành, thành phố N B, tỉnh N B, cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh N B phát hiện bắt quả tang hai chiếu bạc: Chiếu thứ nhất gồm Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr có hành vi đánh bạc được, thua bằng tiền dưới hình thức “ đánh phỏm”, với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 10.550.000 đồng.

Chiếu thứ hai gồm: Khúc Đình N, Đỗ Văn V và Bùi Tiến D có hành vi đánh bạc được, thua bằng tiền dưới hình thức “đánh phỏm” với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 12.990.000 đồng. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr, Khúc Đình N, Đỗ Văn V và Bùi Tiến D đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, hành vi và mức độ phạm tội của các bị cáo cho thấy: Đây là vụ án có đông bị cáo tham gia, chiếu bạc ban đầu đều là những người có quan hệ thân thích.Tuy không có sự bàn bạc, phân công từ trước, nhưng sự phân hóa trong vai trò của các bị cáo có khác nhau, các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm. Với tính chất, mức độ tham gia khác nhau, do đó khi cá thể hóa trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cũng cần xem xét áp dụng hình phạt cho phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Đối với Đặng Mạnh T, sau khi cùng các bị cáo Th, T, Tr về nhà mình uống nước, đã rủ rê “ anh, em mình làm tý ” ý là rủ mọi người đánh bạc và chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ ra để đánh bạc theo hình thức “đánh phỏm”. Bị cáo đã dùng chính nhà mình là nơi để mọi người tham gia đánh bạc. Bị cáo đã sử dụng số tiền 5.100.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt T có 3.800.000 đồng, thua 1.300.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm với vai trò đầu vụ và mức hình phạt tương xứng, cao hơn so với các bị cáo khác cùng chiếu bạc trong lần phạm tội ngày 16/5/2019.

Đối với bị cáo Phạm Văn Th, là đồng phạm với các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T và Đặng Văn Tr trong việc hưởng ứng khi bị cáo T rủ rê đánh bạc và tham gia cùng các bị cáo này sát phạt nhau bằng hình thức đánh “phỏm” ăn tiền. Bị cáo đã có một tiền án theo bản án số 41/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N B, xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính và hình phạt bổ sung của bản án này nhưng chưa được xóa án mà lại phạm tội do cố ý là tái phạm. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy, cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo giáo dục, cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo Đặng Mạnh T cùng đồng phạm với bị cáo T, Th, Tr khi được rủ đánh bạc, do vậy bị cáo cũng phải chịu mức hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi của mình. T đã sử dụng số tiền 2.700.000 đồng trong tổng số 2.820.000 đồng bị cáo có để đánh bạc, khi bị bắt Tuấn có 1.150.000 đồng, thua 1.550.000 đồng. Bị cáo phạm tội này trước khi có bản án số 72/2019/HS-ST ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố N B xử phạt bị cáo 27.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, do vậy không coi việc bị cáo đã bị kết án bằng bản án số 72/2019 là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên hành vi phạm tội ngày 16/5/2019 của bị cáo thực hiện khi đang bị điều tra, truy tố cũng về cùng một loại tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên phải áp dụng một mức hình phạt thích đáng đối với bị cáo Đặng Mạnh T để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đối với các bị cáo Đặng Văn Tr; Bùi Tiến D, Đỗ Văn V. Tuy các bị cáo này tham gia ở hai chiếu bạc khác nhau và không có sự bàn bạc, rủ rê nhau cùng đến nhà T để đánh bạc, nhưng các bị cáo đều có hành vi sát phạt nhau bằng tiền, Đặng Văn Tr có số tiền 3.500.000 đồng và sử dụng số tiền 1.750.000 đồng vào việc đánh bạc; khi bị bắt bị cáo có 2.950.000 đồng, thắng 1.200.000 đồng; bị cáo Bùi Tiến D sử dụng số tiền 3.890.000 đồng trong tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 12.990.000 đồng, khi bị bắt Dũng có 3.090.000 đồng , thua 800.000 đồng; bị cáo V có 1.100.000 đồng trong tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc cùng các bị cáo D và N là 12.990.000 đồng; khi bị bắt V có 900.000 đồng ( trong đó có 300.000 đồng tiền gà, 600.000 để dưới chiếu trước mặt). Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm trong vụ án này với mức hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục các hành vi tương tự.

Đối với Khúc Đình N: là bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử lý về hành vi đánh bạc năm 2010. Ngày 16/5/2019, khi bị cáo đến nhà Đặng Mạnh T thấy chiếu bạc của bị cáo T đã đủ người chơi, bị cáo có hành vi rủ rê D và V cùng thiết lập chiếu bạc chơi ăn tiền thứ hai tại nhà Đặng Mạnh T; bị cáo có 8.000.000 đồng sử dụng hết vào việc đánh bạc, khi bị bắt N có 9.000.000 đồng đang thắng 1.000.000 đồng. Hành vi của Khúc Đình N đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” nên bị cáo Khúc Đình N phải chịu mức hình phạt cao hơn so với các bị cáo D và V.

Về thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội: các bị cáo có động cơ “chơi phỏm” để sát phạt lấy tiền của nhau nhằm thu lời bất chính cho bản thân. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Các bị cáo đều là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự và ở nhiều độ tuổi khác nhau mà cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi bài, bạc đang là tệ nạn của xã hội hiện nay thì việc đưa các bị cáo ra xét xử tại phiên tòa này là cần thiết. Vì vậy, cần xử lý các bị cáo nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội và các hành vi tương tự. Khi lượng hình có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Phạm Văn Th phải chịu tình tiết tăng nặng “ tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 BLHS Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng cho các bị cáo Đặng Mạnh T; Đặng Mạnh T, Đặng Văn Tr; Phạm Văn Th, Khúc Đình N; Bùi Tiến D, Đỗ Văn V được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS; các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Văn Tr, Bùi Tiến D được xem xét áp dụng thêm tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i khoản 1 điều 51 BLHS Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo. Hội đồng xét xử, xét thấy:

Đối với bị cáo Phạm Văn Th cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức tương xứng để giáo dục và cải tạo bị cáo.

Đối với bị cáo Đặng Mạnh T, Khúc Đình N đều là các bị cáo có nhân thân xấu, nhưng xét thấy các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng , thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng Điều 36 BLHS giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo thường trú và gia đình giám sát giáo dục mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo. Đặng Mạnh T, Khúc Đình N được trừ thời gian đã bị tạm giữ theo tỷ lệ cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ; khấu trừ thu nhập 5% để sung quỹ Nhà nước.

Đối với các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Văn Tr phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ khai báo thành khẩn; Bùi Tiến D và Đỗ Văn V có nhân thân xấu nhưng xét thấy các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo, không có tình tiết tăng nặng nên áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với các bị cáo T, Tr, D, V là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự quy định “ … người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng…” ; do đó đối với bị cáo Phạm Văn Th, Đặng Mạnh T, Khúc Đình N ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo này với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước; Đối với các bị cáo T, Tr, D, V do áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. [4]Về xử lý vật chứng : áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 02 bộ tú lơ khơ 52 quân là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội do vậy cần tịch thu tiêu hủy. Hai chiếc chiếu thu giữ tại nhà bị cáo Đặng Mạnh T gồm: 01 chiếu trúc màu vàng có kích thước (1,6 x 2) m và 01 chiếu nhựa màu xanh kích thước (1,6 x2) m là vật dùng vào việc phạm tội, đều đã cũ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 23.540.000 đồng thu ở hai chiếu bạc là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 1.950.000 đồng thu giữ của các bị cáo Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th và Đặng Văn Tr, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định các bị cáo không sử dụng số tiền này vào việc đánh bạc. Do vậy cần trả lại cho các bị cáo T, Th và bị cáo Tr.

- Cơ quan điều tra thu giữ 01 điện thoại Nokia màu đen thu của Phạm Văn Th ; 01 ví da cầm tay màu nâu kích thước ( 15x 25) cm thu của Đặng Mạnh T; 01 ví da màu đen kích thước ( 22 x10) cm thu của Đặng Văn Tr; 01 ví da cầm tay màu đen có in dòng chữ WILLIAMDOU thu của Khúc Đình N; xét thấy các tài sản này không liên quan đến vụ án nên trả lại cho các bị cáo T, Tr, N, Th.

- Đối với 01 điện thoại hiệu Nokia, 01 điện thoại hiệu Huawei thu giữ của Đặng Mạnh T; 01 điện thoại hiệu Vsmart màu xanh thu giữ của Đặng Văn Tr; 01 điện thoại hiệu Oppo màu vàng, 01 điện thoại không có nhãn mác màu đen thu của Bùi Tiến D; 01 điện thoại hiệu Iphone màu vàng thu của Khúc Đình N; 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen thu của Đỗ Văn V không liên quan đến việc đánh bạc nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố N B đã trả lại số tài sản trên cho T, Tr, D, N, V là có căn cứ.

[5] Các vấn đề khác: Đối với hai chiếu bạc bị bắt qủa tang chiều ngày 16/5/2019 tại nhà Đặng Mạnh T. Các bị cáo T, Th, Tr, N, D, V và bị cáo T đều khai nhận T không ép buộc, lôi kéo, không cho vay tài sản, không thu tiền hồ, tiền chiếu, không cử người cảnh giới khi các đối tượng đánh bạc tại nhà T; bị cáo T cũng cùng tham gia đánh bạc cùng T, Th, Tr. Do đó không có căn cứ để xử lý Đặng Mạnh T về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo điều 322 Bộ luật hình sự.

[6] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1.Tuyên bố các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr, Bùi Tiến D, Khúc Đình N, Đỗ Văn V phạm tội “ Đánh bạc”.

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Đặng Mạnh T, Đặng Văn Tr và Bùi Tiến D.

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Phạm Văn Th.

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Đặng Mạnh T và bị cáo Khúc Đình N - Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Văn V.

1.1.Xử phạt: Phạm Văn Th 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2019 ; phạt tiền 10.000.000 đồng ( mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

1.2.Xử phạt: Đặng Mạnh T 15 ( mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ ( được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/5/2019 đến ngày 22/5/2019 là 06 ngày tạm giữ, quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ; bị cáo còn phải chấp hành là 14 ( mười bốn) tháng 12 ( mười hai) ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Đặng Mạnh T cho Ủy ban nhân dân phường Đ Th, thành phố N B, tỉnh N B theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Đông Th, thành phố N B, tỉnh N B trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo Đặng Mạnh T còn bị khấu trừ thu nhập là 05% để sung công quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo 12.000.000 đồng ( Mười hai triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước;

1.3. Xử phạt Khúc Đình N 09 ( chín) tháng cải tạo không giam giữ ( được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/5/2019 đến ngày 22/5/2019 là 06 ngày tạm giữ, quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo còn phải chấp hành là 08 (tám) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Ph Th, thành phố N B, tỉnh N B nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Khúc Đình N cho Ủy ban nhân dân phường Ph Th, thành phố N B, tỉnh N B theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo N có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Ph Th, thành phố N B, tỉnh N B trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo Khúc Đình N còn bị khấu trừ thu nhập là 05% để sung công quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng ( Mười triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước;

1.4. Xử phạt Đặng Mạnh T 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

1.5. Xử phạt Đặng Văn Tr 22.000.000 đồng (Hai mươi hai triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

1.6. Xử phạt Bùi Tiến D 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

1.7. Xử phạt Đỗ Văn V 27.000.000 đồng ( Hai mươi bảy triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

2.Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

2.1.Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 23.540.000 đồng (hai ba triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng) thu của các bị cáo (Số tiền 23.540.000 đồng hiện đang gửi tại tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B số 3949.0.1055126.00000 tại kho bạc Nhà nước tỉnh N B, theo ủy nhiệm chi ngày 01/10/2019).

2.2.Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài 52 quân; 01 chiếu trúc màu vàng; 01 chiếu nhựa màu xanh (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B ngày 07/10/2019) 2.3. Số tiền và đồ vật không sử dụng vào việc đánh bạc được trả lại cho các bị cáo, bao gồm:

2.3.1.Trả lại số tiền 120.000 đồng cho bị cáo Đặng Mạnh T và 01 ví da màu nâu.

2.3.2.Số tiền 80.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen trả lại cho bị cáo Phạm Văn Th.

2.3.3.Số tiền 1.750.000 đồng và 01 ví da màu đen kích thước ( 22x10) cm thu của Đặng Văn Tr trả lại cho bị cáo Tr.

2.3.4. 01 ví da cầm tay màu đen có dòng chữ WILLIAMDOU kích thước (18 x 9) cm trả lại cho Khúc Đình N.

( Tổng số tiền trả lại cho các bị cáo T, Th, Tr là 1.950.000 đồng, hiện đang ở tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình tại kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình theo ủy nhiệm chi ngày 01/10/2019; Tài sản là điện thoại và ví da hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B theo biên bản giao nhận ngày 07/10/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B ).

3.Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Đặng Mạnh T, Đặng Mạnh T, Phạm Văn Th, Đặng Văn Tr, Bùi Tiến D, Khúc Đình N, Đỗ Văn V, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 120/2019/HS-ST

Số hiệu:120/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về