TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2022/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Lưu Thị T, Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1965, tại Bình Thuận. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 8, phường Phú T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 06/12; Cha: Lưu C (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1944; Chồng: Hoàng Đình H (đã chết); Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh 1983, nhỏ nhất sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: chưa có.
2. Hoàng Thị Thu S; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1991, tại Bình Thuận. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 8, phường Phú T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Hoàng Đình H (đã chết); Mẹ: Lưu Thị T, sinh năm 1965; Chồng: Trần Minh Tr, sinh năm 1986; Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: chưa có.
Các bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
Ông Nguyễn Lê T, sinh năm 1980 – Trú tại: Khu phố 4, phường Phú Th, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
Ông Phan Gia M, sinh năm 1942 – Trú tại: Khu phố 8, phường Phú T, Tp Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 07/02/2022, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an thành phố P phối hợp cùng Công an phường Phú T tiến hành kiểm tra nhà Lưu Thị T tại số nhà 03 – đường Trương Công Định thuộc Khu phố 08, phường Phú T, thành phố P phát hiện bắt quả tang Th cùng với con ruột là Hoàng Thị Thu S đang có hành vi bán số đề cho Nguyễn Lê T. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời thu giữ đồ vật, tài liệu gồm:
Thu giữ của Lưu Thị T: 11 tờ phơ đề (được ký hiệu A1, A3 đến A12 khi giám định chữ viết, chữ số); 01 (một) máy tính tay hiệu CASIO; 01 (một) cây bút mực đen; Số tiền 7.340.000 đồng;
Thu giữ của Nguyễn Lê T:
01 tờ phơ đề (ký hiệu A2 khi giám định chữ viết, chữ số);
Ngoài ra, Hoàng Thị Thu S đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P 01 điện thoại di động hiệu Vsmart Joy4, có sim số 0977.133.445;
Quá trình điều tra xác định được Lưu Thị T bắt đầu bán số đề thắng thua bằng tiền theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh miền Nam cho các con bạc tại nhà ở số 03 đường Trương Công Định cách thời điểm bị bắt quả tang khoảng 01 năm. Hàng ngày, Th bán số đề cho các con bạc, sau đó nhờ Hoàng Thị Thu S sử dụng điện thoại Vsmart Joy4 của S, chụp lại toàn bộ phơ đề đã bán cho các con bạc rồi sử dụng tài khoản Zalo của S (được đăng ký bằng số điện thoại 0977113445) chuyển các tờ phơ này cho các cho đối tượng được lưu tên trên tài khoản Zalo là “Kiệt” (không rõ nhân thân) để hưởng hoa hồng với số tiền trung bình mỗi ngày là từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh miền nam thì Kiệt sẽ đến nhà của Th để chung chi tiền cho các con bạc thông qua Th.
Về hình thức mua bán số đề, cách ghi trên phơ và tỷ lệ thắng thua giữa Th và các con bạc như sau:
Hình thức mua bán số đề dạng “Đầu đuôi”: sử dụng kết quả là hai con số của giải tám kết quả xổ số làm cơ sở để đánh bạc, tỷ lệ 1 ăn 60. Nghĩa là khi con bạc mua 1000 đồng đầu nếu trúng thì thắng được 60.000 đồng và 1000 đồng đuôi nếu trúng sẽ thắng được 60.000 đồng. Nếu con bạc mua số đề “Đầu, đuôi”, Th sẽ ghi lên phơ số mà con bạc mua ở giữa, bên trái của cặp số này là số tiền mua “đầu” và bên phải của cặp số này là số tiền mua “đuôi”, số tiền ghi đề được kí hiệu giảm 1.000 lần. Ví dụ ghi: “10 02 5” tức số tiền con bạc mua “đầu” của con số 02 là 10.000 đồng, số tiền con bạc mua “đuôi” con số 02 là 5.000 đồng.
Đối với hình thức mua bán số đề dạng “Bao lô hai chân”: sử dụng hai chữ số hàng chục và đơn vị của 18 giải trong kết quả xổ số từ giải tám đến giải đặc biệt làm cơ sở để đánh bạc. Tỷ lệ thắng thua là 1 thắng 60, nghĩa là nếu con bạc mua 1000 đồng/lô nếu kết quả xổ số của 18 giải từ giải tám đến giải đặc biệt có hai chữ số hàng chục và hàng đơn vị trùng với con số (lô) của con bạc mua thì con bạc thắng 60.000 đồng. Hình thức này con bạc phải mua toàn bộ 18 lô với số tiền mỗi lô là 1000 đồng thì tổng cộng số tiền người mua phải trả là 18.000 đồng. Tuy nhiên Th chỉ thu 12.000 đồng nhằm mục đích thu hút người mua. Ví dụ ghi: “BL 10 1” thì “BL” là kí hiệu chữ bao lô, “10” là con lô (số đề) của con bạc mua, “1” là số tiền con bạc mua bao lô với giá mỗi lô là 1000 đồng. trong ví dụ này thì con bạc phải trả cho Th số tiền 12.000 đồng.
Khi có người đến mua số đề, Th ghi các con số họ mua vào một tờ phơ đưa cho các con bạc, sau đó ghi lại các con số này vào một tơ phơ tổng hợp để theo dõi thắng thua.
Vào khoảng 14 giờ ngày 07/02/2022, Th ngồi bán số đề cho các con bạc theo kết quả xổ số của các đài Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau tại phòng khách nhà mình. Đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày thì Hoàng Thị Thu S đến nhà Th, lúc này có Nguyễn Lê T vào nhà Th mua số đề với con số 26 bao lô 03 đài (Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau) mỗi đài 3.000 đồng, Trung đưa tổng số tiền cho Th là 108.000 đồng, sau đó S là người trực tiếp ghi phơ đề cho Trung. Khi S vừa đưa tờ phơ đề (có ký hiệu A2) cho Trung thì bị lực lượng Công an ập vào bắt quả tang, thu giữ tang vật như trên.
Quá trình điều tra còn xác định được ngày 07/2/2022, trước khi bị bắt quả tang, Th đã bán số đề theo hình thức “đầu – đuôi” cho Phan Gia M (tên gọi Mười Địa, sinh năm 1942, trú tại khu phố 08, phường Phú T, thành phố P với các con số 11, 12, 13, 14, 15 02 đài (Đồng Tháp và TPHCM) mỗi con “đầu” với số tiền 10.000 đồng, “đuôi” với số tiền 10.000 đồng. Mười đã đưa cho Th số tiền 100.000 đồng, Th ghi các con số trên vào tờ phơ đưa cho Mười. Sau khi biết Th bị bắt giữ, Mười lo sợ nên đã xé bỏ tờ phơ trên nên Cơ quan CSĐT không thu giữ được.
Tính đến thời điểm bị lực lượng Công an bắt quả tang, Th đã bán số đề cho nhiều con bạc khác nhau (không rõ nhân thân) sau đó đã tổng hợp lại số đề đã bán cho các con bạc (tại các tờ phơ thu giữ ký hiệu A2, A3, A5, A6, A12 khi giám định) vào tờ phơ tổng (tờ phơ được ký hiệu A1 khi giám định). Các tờ phơ có ký hiệu A4, A7 đến A11 có ghi các nội dung không liên quan đến việc bán số đề.
Cơ quan CSĐT – Công an thành phố P đã thu mẫu chữ viết (gồm chữ và số) của Lưu Thị T (ký hiệu là M1, M2, M3) và của Hoàng Thị Thu S (được ký hiệu là M1, M2, M3 khi giám định) để tiến hành giám định đối khớp với chữ và số ghi trên các tờ phơ thu giữ (được ký hiệu theo thứ tự từ A1 đến A12).
Tại bản Kết luận giám định số 128/KL-PC09, ngày 15/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận như sau:
Chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A1, A3, A7, A8, A9, A10, A11 so với chữ viết, chữ số của Lưu Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết.
Chữ viết, chữ số trên tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A4 (mặt có chữ viết có nội dung “Lưu Thị T”, “Th”); chữ viết, chữ số trong khung màu đỏ trên tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A5 so với chữ viết, chữ số của Lưu Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết ra.
Chữ viết, chữ số trên tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A4 (mặt không có chữ viết có nội dung “Lưu Thị T”, “Th”); chữ viết, chữ số ngoài khung màu đỏ trên tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A5; chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A2, A6, A12 so với chữ viết, chữ số của Lưu Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 không phải do cùng một người viết ra.
Tại bản Kết luận giám định số 215/KL-PC09, ngày 04/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận như sau:
Chữ viết, chữ số trên các tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu A2/215/2022 so với chữ viết, chữ số của Hoàng Thị Thu S trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 do cùng một người viết ra.
Chữ viết, chữ số trên tài liệu mẫu cần giám định ký hiệu từ A1/215/2022 đến A12/215/2022 (trừ chữ viết, chữ số đã kết luận tại mục 5.1 (A2/215/2022) ) so với chữ viết, chữ số của Hoàng Thị Thu S trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 không phải do cùng một người viết ra.
Ngoài ra, quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P còn thu thập được một số hình ảnh các tờ phơ đề (không xác định được ngày bán) được lưu trên điện thoại di động của cá nhân Hoàng Thị Thu S. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P đã tiến hành trích xuất hình ảnh này, đồng thời gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận để tiến hành giám định chữ viết chữ số, xác định có phải do Lưu Thị T hoặc Hoàng Thị Thu S viết ra hay không.
Ngày 29/4/2022, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận ban hành Công văn số 412/CV-PC09, trả lời trưng cầu giám định của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P như sau:
Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận không tiến hành giám định đối với mẫu cần giám định nêu trên vì tài liệu là bản phô tô, không phải là chữ viết trực tiếp, không có giá trị để để Kết luận giám định.
Tại thời điểm bắt quả tang lúc 15 giờ 45 phút ngày 07/02/2022 chưa có kết quả xổ số các đài Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau. Do đó, căn cứ vào lời khai và diễn giải phơ đề đã thu của Lưu Thị T và Nguyễn Lê T (tờ phơ ký hiệu A2) đã được Th tổng hợp vào tờ được ký hiệu từ A1, lời khai của Nguyễn Lê T, Phan Gia M xác định số tiền đánh bạc bằng hình thức bán số đề của Lưu Thị T vào ngày 07/02/2022 như sau:
Đài Đồng Tháp (đài chính): số tiền dùng vào việc đánh bạc 17.839.000 đồng, số tiền thực thu: 11.892.666 đồng; Đài thành phố Hồ Chí Minh (đài phụ): số tiền dùng vào việc đánh bạc: 17.224.000 đồng, số tiền thực thu: 11.492.666 đồng. Đài Cà Mau (đài 3): số tiền dùng vào việc đánh bạc: 4.469.000 đồng, số tiền thực thu:
2.979.333 đồng. Tổng số tiền thực thu của Th trong ngày 07/02/2022 là 26.364.665 đồng Tính đến thời điểm bắt quả tang, do có nhiều con bạc mua số đề nhưng nợ tiền nên Th đã thu của con bạc được 7.340.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố theo cáo trạng truy tố số 66/CT-VKSPT ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P Đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên: các bị cáo Lưu Thị T và Hoàng Thị Thu S phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;
Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i,s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lưu Thị T từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thu S từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 máy tính tay hiệu CASIO; 01 cây bút mực đen.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 7.340.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vsmart Joy4.
Đối với 11 tờ phơ được ký hiệu từ A1, A3 đến A12 khi giám định thu giữ của Lưu Thị T và tờ phơ ký hiệu A2 khi giám định thu giữ của Nguyễn Lê T hiện lưu giữ hồ sơ vụ án.
Ý kiến của các bị cáo tại phiên tòa: Các bị cáo xác định cáo trạng truy tố là không oan; các bị cáo không tranh luận và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng 66/CT-VKSPT ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố. Các bị cáo khẳng định những lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, các bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 45 phút, ngày 07/02/2022, Lưu Thị T đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số đề cho các con bạc khác với tổng số tiền đánh bạc theo kết quả xổ số của đài Đồng Tháp là 17.839.000 đồng, thực thu 11.892.666 đồng; đài thành phố Hồ Chí Minh là 17.224.000 đồng, thực thu 11.492.666 đồng; đài Cà Mau là 4.469.000 đồng đồng, thực thu: 2.979.333 đồng. Tổng số tiền đánh bạc mà bị cáo thực thu là 26.364.665 đồng.
Do vậy, Cáo trạng số 66/CT-VKSPT ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố các bị cáo Lưu Thị T và Hoàng Thị Thu S phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng và là nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều tệ nạn khác cho xã hội. Các bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe để lao động phục vụ cho bản thân nhưng các bị cáo vì muốn có tiền từ việc vi phạm pháp luật nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương do đó cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong vụ án này, bị cáo Lưu Thị T đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức bán số đề, trong đó số tiền đánh bạc của các đài Đồng Tháp và đài thành phố Hồ Chí Minh đều trên 05 triệu đồng, nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 52 bộ luật Hình sự. Trong vụ án này bị cáo Hoàng Thị Thu S thực hiện hành vi giúp cho bị cáo Th chụp lại các tờ phơ rồi gửi qua tài khoản Zalo tên “Kiệt”. Như vậy, trong vụ án này bị cáo S là đồng phạm và phải cùng chịu trách nhiệm hình sự với vai trò giúp sức cho bị cáo Th trong việc đánh bạc Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thể hiện thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng cho các bị cáo.
Trên cơ sở cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, nhận thấy: Các bị cáo là phụ nữ, mục đích bán số đề để chuyển lại cho chủ cái hưởng hoa hồng (phần trăm) không trực tiếp đánh bạc nên áp dụng mức hình phạt tiền là hình phạt chính cho các bị cáo cũng đủ phòng ngừa và giáo dục các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 máy tính tay hiệu CASIO; 01 cây bút mực đen là vật chứng vụ án không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền thu lợi bất chính 7.340.000 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vsmart Joy4 là phương tiện phạm tội nên tịch thu để nộp ngân sách nhà nước.
Đối với tài khoản Zalo tên “Kiệt và Nguyễn Lê T, Phan Gia M quá trình điều tra xác định không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan Điều tra chuyển xử lý hành chính là có căn cứ.
Đối với các con bạc mua số lô đề của Lưu Thị T vào ngày 07/02/2022, do Th không nhớ được họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
[7] Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Lưu Thị T và Hoàng Thị Thu S cùng phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: bị cáo Lưu Thị T 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: bị cáo Hoàng Thị Thu S 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng: Điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 máy tính tay hiệu CASIO; 01 cây bút mực đen.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 7.340.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vsmart Joy4.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 94 ngày 24/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P và cơ quan điều tra thành phố P và giấy nộp số tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố P ngày 24/6/2022).
Về án phí: Áp dụng khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Lưu Thị T và Hoàng Thị Thu S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai, có mặt các bị cáo. Báo cho biết các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/7/2022).
Bản án về tội đánh bạc số 104/2022/HS-ST
Số hiệu: | 104/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về