Bản án về tội đánh bạc số 104/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 104/2022/HS-PT NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 414/2021/TLPT-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Xuân Th và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HS-ST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Xuân Th; giới tính: Nam; sinh ngày 08/11/1981, tại tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 26, phường Đông Ph, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Cán bộ Cục quản lý thị trường tỉnh Lai Châu; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Xuân T và bà Nguyễn Thị Th1; có vợ là Phạm Thị Ph1 và có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xử phạt 5.000.000đ (năm triệu đồng) về tội “Đánh bac”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 05/10/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

2. Nguyễn Văn C, tên gọi khác: Nguyễn Đức C; giới tính: Nam; sinh ngày 20/02/1991, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 7, phường Quyết T1, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; chỗ ở: Tổ 5, phường Quyết T1, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn C1 và bà Nguyễn Thị T2 (đã chết); có vợ là Trần Thị H và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 05/10/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

3. Phạm Anh T3, giới tính: Nam; sinh ngày 16/01/1984, tại tỉnh Lai Châu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 3, phường Đoàn K, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; tạm trú tại: Tổ 25, phường Đông Ph, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phạm Văn T4 và bà Nguyễn Thị H1; có vợ là Nguyễn Thị Ph2 và có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 05/10/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

4. Nguyễn Văn Th2, giới tính: Nam; sinh ngày 02/11/1989, tại tỉnh Lai Châu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 16, phường Tân Ph, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn M và bà Đỗ Thị L; có vợ là Võ Khánh L1 và có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 17/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

5. Trần Xuân Ngh, giới tính: Nam; sinh ngày 20/7/1982, tại tỉnh Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu Sụ Ng, xã Cự Th3, huyện Thanh S, tỉnh Phú Thọ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Cán bộ Đội Quản lý thị trường số 5 tỉnh Phú Thọ (đã bị đình chỉ công tác); trình độ học vấn: 12/12; là Đảng viên ĐCSVN, hiện nay đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị H2; có vợ là Hoàng Thị L2 và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.

6. Vũ Thị V, giới tính: Nữ; sinh ngày 13/09/1988, tại tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Tây Ng1, xã Mường S1, huyện Phong Th4, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Vũ Đình Th5 và bà Trần Thị O; có chồng là Trần Việt H3 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.

7. Nguyễn Trọng T5, giới tính: Nam; sinh ngày 16/11/1995, tại tỉnh Lai Châu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: bản An T6, xã Pa T6, huyện Sìn H4, tỉnh Lai Ch; tạm trú: Tổ 11, phường Đoàn K, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn Ch (đã chết) và bà Trần Thị H5; có vợ là Nguyễn Thị Y và 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 18/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

8. Vũ Ngọc Đ, giới tính: Nam; sinh ngày 19/8/1996, tại tỉnh Lai Châu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: bản Hợp 1, xã Bản L3, huyện Phong Th4, tỉnh Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Vũ Ngọc Đ2 và bà Hoàng Thị L4 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến ngày 18/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

9. Nguyễn Thị Bích L5, giới tính: Nữ; sinh ngày 21/6/1972, tại tỉnh Lai Châu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Tây Ng1, xã Mường S1, huyện Phong Th4, Lai Châu; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; con ông Nguyễn Kim Ph3 (đã chết) và bà Phạm Thị T7; có chồng là Nguyễn Ngọc L6 và có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến ngày 17/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, hiện tại ngoại; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 06 bị cáo khác gồm Ma Thị Ngọc H6, Nguyễn Trường Gi, Đinh Quốc T8, Vương Ngọc T3, Phạm Quang H7, Lương Quỳnh L7 đều bị kết án về tội “Đánh bạc” không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, nội dung vụ án liên quan đến các bị cáo có kháng cáo như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2018 đến ngày 22/6/2020, các bị cáo Phạm Anh T3, Nguyễn Văn Th2, Nguyễn Xuân Th, Vũ Thị V, Nguyễn Thị Bích L5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Trọng T5, Nguyễn Văn C (Nguyễn Đức C), Trần Xuân Ngh cùng với Mạ Thị Ngọc H6, Nguyễn Trường Gi, Đinh Quốc T8, Vương Ngọc T3, Phạm Quang H7, Lương Quỳnh L7 vừa trực tiếp ghi và đánh số lô, số đề vừa sử dụng điện thoại di động thông minh nhắn tin qua tin nhắn điện thoại SMS, tin nhắn ứng dụng Zalo để đánh bạc bằng hình thức trao đổi, mua bán số lô, số đề trái quy định của Nhà nước. Các bị cáo đánh bạc với nhau dưới các hình thức đánh lô điểm, lô xiên 2, xiên 3, xiên 4, số đề 02 càng, đề 03 càng. Kết quả được so với kết quả xổ số miền Bắc, mở thưởng lúc 18 giờ 15 phút hàng ngày. Cụ thể: số lô điểm, lô xiên được so với 02 số cuối cùng của 27 giải; số đề 02 càng hoặc 03 càng được so với 02 số cuối hoặc 03 số cuối cùng của giải đặc biệt, nếu trùng là trúng thưởng, thắng thua được quy đổi bằng tiền Việt Nam đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Anh T3, Nguyễn Văn Th2, Nguyễn Xuân Th, Vũ Thị V, Nguyễn Thị Bích L5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Trọng T5, Nguyễn Văn C (Nguyễn Đức C), Trần Xuân Ngh như sau:

1. Bị cáo Phạm Anh T3: Từ ngày 17/5/2020 đến 08/6/2020, T3 sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng trắng, lắp SIM số điện thoại 0966.263.584 và đăng ký tài khoản Zalo tên “Anh Tu” để nhắn tin đến tài khoản Zalo tên “Chà Xa” được đăng ký bằng số điện thoại 0979.603.529 và tài khoản Zalo tên “Thi Nhich Thich” (Bị cáo T3 lưu trong điện thoại tên “a thanh con”) được đăng ký bằng số điện thoại 0962.739.287 của Nguyễn Xuân Th để mua bán số lô, số đề. Quá trình đánh bạc, T3 và Th thỏa thuận việc đánh bạc như sau: T3 nhắn số lô điểm, lô xiên, số đề cần đánh cho Th, số lô điểm thì ký hiệu số lô cần đánh “x” hoặc “.” với số điểm, ký hiệu “d” nghĩa là điểm, lô xiên và số đề thì ghi là “xiên” hoặc ghi con số cần đánh “x” hoặc “.” với số tiền “triệu” là các đối tượng sẽ hiểu là đánh lô xiên và đánh số đề. Khi nhận được tin nhắn của T3, Th sẽ nhắn lại “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận số lô, số đề của T3. Trong quá trình đánh bạc, T3 mua số lô của Th với giá 21.900 đồng/01 điểm lô, lô xiên bằng 70% tổng số tiền đánh, số đề bằng 73% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 1 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua và chốt lại chuyển tiền cho nhau. Nếu số tiền đánh và tiền trúng thưởng trừ đi còn ít thì các bị cáo để ngày hôm sau đánh cộng dồn tiếp. Về hình thức chuyển tiền, các bị cáo có lúc đưa tiền mặt, có lúc sử dụng tài khoản ngân hàng để chuyển tiền thắng, thua đánh bạc với nhau, qua số tài khoản 36210000310211 của T3 mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu và số tài khoản 36210000040174 của Th mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu để chuyển tiền đánh bạc với nhau. Trong khoảng thời gian này, T3 và Th đánh bạc với tổng số tiền là 3.395.600.000 đồng (ba tỷ ba trăm chín mươi năm triệu sáu trăm nghìn đồng), số tiền trúng là 2.420.000.000 đồng (hai tỷ bốn trăm hai mươi triệu đồng), số tiền T3 đánh bạc thua Th là 975.600.000 đồng (chín trăm bảy lăm triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa bị cáo T3 và Th là 5.815.600.000 đồng (năm tỷ tám trăm mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa T3 và Th là ngày 08/6/2020 với số tiền là 770.500.000 đồng (bảy trăm bảy mươi triệu năm trăm nghìn đồng).

Từ ngày 02/6/2020 đến 08/6/2020, T3 dùng số điện thoại 0966.263.584 nhắn tin đến số điện thoại 0965.927.222 (T3 lưu tên trong danh bạ là “soong”) và sử dụng tài khoản Zalo tên “Anh Tu” để nhắn tin đến tài khoản Zalo tên “Tình Đời” được đăng ký bằng số điện thoại 0845.661.666 của Nguyễn Văn Th2 để mua bán số lô, số đề. T3 nhắn số lô điểm, lô xiên, số đề cần đánh cho Th2, nếu đánh lô điểm thì nhắn số lô cần đánh sau đó đến số điểm, ký hiệu “d” đằng sau nghĩa là điểm, lô xiên và số đề thì ghi là “xiên” hoặc ghi con số cần đánh, sau đó “.” đến số tiền cần đánh, ký hiệu đằng sau là “triệu” là các đối tượng sẽ hiểu là đánh lô xiên và đánh số đề bao nhiêu tiền. Khi nhận được tin nhắn của T3, Th2 sẽ nhắn lại “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận số lô, số đề của T3. Trong quá trình đánh bạc, T3 mua số lô của Th2 với giá 21.800 đồng/1 điểm lô, lô xiên, số đề bằng 70% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 1 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày T3 và Th2 so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua và chuyển tiền cho nhau với hai hình thức là chuyển tiền trực tiếp và sử dụng qua tài khoản ngân hàng, nếu tiền thắng thua còn ít thì để ngày hôm sau đánh và cộng dồn tiếp. T3 sử dụng số tài khoản 36210000310211 mang tên Phạm Anh T3 mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu, Th2 sử dụng số tài khoản 36210000316714 mang tên Nguyễn Văn Th2 mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu để chuyển tiền đánh bạc với nhau. Từ ngày 02/6/2020 đến ngày 08/6/2020, tổng tiền T3 đánh lô, đề với Th2 là 1.097.600.000 đồng (một tỷ không trăm chín bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), số tiền T3 trúng 1.060.000.000đ (một tỷ không trăm sáu mươi triệu đồng), trừ số tiền đánh thì T3 thua Th2 là 37.600.000 đồng (ba bảy triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa T3 và Th2 là 2.157.600.000 đồng (hai tỷ một trăm năm bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa T3 và Th2 là ngày 02/6/2020 với số tiền là 571.800.000 đồng (Năm trăm bảy mốt triệu tám trăm nghìn đồng).

Tổng số tiền đánh bạc giữa Phạm Anh T3 với Nguyễn Xuân Th và Nguyễn Văn Th2 với số tiền 7.973.200.000 đồng (bảy tỷ chín trăm bảy mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất của T3 với Th, Th2 là ngày 02/6/2020 với số tiền là 1.144.200.000 đồng (một tỷ một trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

2. Bị cáo Nguyễn Văn Th2: Từ tháng 03/2020 đến tháng 06/2020, Th2 đa sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Pro max, lăp hai SIM sô 0965.927.222 va 0979.838.333, sử dụng tài khoản Zalo tên “Tình Đời” đươc đăng ky băng sô điên thoai 0845.661.666 để nhắn tin đánh “lô, đề” trái pháp luật với nhiều người, cụ thể:

Từ ngày 02/6/2020 đến 08/6/2020, Th2 sử dụng số điện thoại 0965.927.222 và tài khoản zalo tên “Tình Đời” để nhắn tin đánh số lô, số đề với Phạm Anh T3 qua số điện thoại 0966.263.584 và tài khoản Zalo tên “Anh Tu”. Vẫn là phương thức, thủ đoạn như trên, Th2 đã đánh “lô, đề” với Phạm Anh T3 tổng số tiền đánh bạc là 2.157.600.000đ (hai tỷ một trăm năm bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Th2 và T3 là ngày 02/6/2020 với số tiền là 571.800.000 đồng (năm trăm bảy mốt triệu tám trăm nghìn đồng).

Từ ngày 03/3/2020 đến ngày 06/3/2020, Th2 sử dụng tài khoản Zalo tên “Tình Đời” nhắn tin đánh số lô, số đề trái pháp luật với Phạm Quang H7 qua tài khoản Zalo tên “Phamquanghiep” (Th2 lưu tên là “H7 Lợn 2”) được đăng ký bằng số điện thoại 0912.891.033. Quá trình đánh bạc Th2 và H7 thỏa thuận với nhau về hình thức qua tin nhắn phần mềm Zalo, nếu đánh lô xiên, số đề thì ghi “xiên”, “đề”, “3 cang” sau đó đến số cần đánh “x” số tiền cần đánh và ký hiệu “k” hoăc “n” phía sau nghĩa là nghìn đồng. Khi nhận được tin nhắn của H7 thì Th2 sẽ nhắn lại “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận được tin nhắn số lô, số đề của H7. Th2 và H7 thỏa thuận với nhau giá lô xiên bằng 60%, số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 73% tổng số tiền đánh. Nếu trúng lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, Th2 và H7 đối chiếu, so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính tiền thắng, thua và chuyển tiền thắng, thua trực tiếp. Qua trinh đanh bac tư ngay 03/3/2020 đên ngay 06/3/2020, tổng tiền đánh của Th2 với H7 là 10.945.000 đồng (mười triệu chín trăm bốn lăm nghìn đồng), tổng tiền trúng là 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng), số tiền H7 đánh bạc thắng Nguyễn Văn Th2 là 3.055.000 đồng (ba triệu không trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa Nguyễn Văn Th2 và Phạm Quang H7 là 24.945.000 đồng (hai mươi bốn triệu chín trăm bốn lăm nghìn đồng). Ngày đánh bạc cao nhất giữa Th2 và H7 là ngày 05/3/2020 với số tiền là 20.424.000 đồng (hai mươi triệu bốn trăm hai bốn nghìn đồng) (cả gốc và lãi). Số tiền mà H7 đánh bạc thắng Nguyễn Văn Th2 đã thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt cho H7.

Ngoài ra trong khoảng thời gian từ ngày 03/3/2020 đến ngày 06/3/2020, Th2 sử dụng phần mềm Zalo tên “Tình Đời” nhắn tin đánh số lô, số đề trái pháp luật với Vũ Thị V qua tài khoản Zalo tên “Milan” được đăng ký bằng số điện thoại 0986.778.333 (Th2 lưu tên trong danh bạ là “Vân Thép”). Quá trình đánh lô, đề Th2 và V thỏa thuận về hình thức đánh qua tin nhắn phần mềm Zalo, nếu đánh lô điểm thì ghi “lo” sau đó đến số lô đánh rồi “x” số điểm lô cần đánh và ký hiệu “d” đằng sau có nghĩa là điểm lô; số lô xiên, số đề thì ghi “xiên”, “de” sau đó đến số lô xiên, số đề cần đánh “x” số tiền cần đánh và ký hiệu “k” phía sau nghĩa là nghìn đồng. Khi nhận được tin nhắn của Vũ Thị V thì Nguyễn Văn Th2 sẽ nhắn lại là “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận được tin nhắn số lô điểm, lô xiên, số đề của V. Trong quá trình đánh bạc Th2 và V thỏa thuận với nhau giá một điểm lô là 21.800 đồng, số lô xiên bằng 70%, số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 72% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 01 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng, số đề 03 càng trả như đánh với các đối tượng khác. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày Th2 và V so sánh với những số lô, số đề đã đánh với kết quả sổ số miền Bắc để tính thành tiền thắng, thua và thanh toán cho nhau bằng hình thức trả tiền mặt trực tiếp. Tất cả các lần V đánh lô, đề với Th2 có tổng số tiền đánh là: 53.086.000 đồng (năm mươi ba triệu không trăm tám mươi sáu nghìn đồng), tổng tiền trúng là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng), số tiền V đánh bạc thua phải trả cho Th2 là 29.086.000 đồng (hai chín triệu không trăm tám sáu nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa bị cáo Th2 và V là: 77.086.000 đồng (bảy mươi bảy triệu không trăm tám mươi sáu nghìn đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất giữa V và Th2 là ngày 03/3/2020 với số tiền là 36.340.000 đồng (ba mươi sáu triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tổng số tiền đánh lô, đề trái pháp luật giữa bị cáo Th2 với các bị cáo: Phạm Anh T3, Phạm Quang H7 và Vũ Thị V với tổng số tiền là: 2.259.631.000 đồng (hai tỷ hai trăm năm mươi chín triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng), trong đó ngày đánh lô, đề cao nhất của Th2 với T3, H7, V là ngày 02/6/2020 với tổng số tiền là 571.800.000 đồng (năm trăm bảy mốt triệu tám trăm nghìn đồng). Số tiền thắng “lô, đề” của bị cáo Th2 là 63.631.000 đồng (sáu mươi ba triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

3. Bị cáo Nguyễn Xuân Th: Với phương thức thủ đoạn như bị cáo Phạm Anh T3. Từ ngày 17/5/2020 đến 08/6/2020, Th sử dụng tài khoản Zalo tên “Chà Xa” được đăng ký bằng số điện thoại 0979.603.529 và tài khoản Zalo tên “Thi Nhich Thich” được đăng ký bằng số điện thoại 0962.739.287 để nhắn tin đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Phạm Anh T3 qua Zalo tên “Anh Tu”, Th đã đánh bạc với T3 với tổng số tiền là: 5.815.600.000 đồng (năm tỷ tám trăm mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng), trong đo T3 đánh bạc thua Th số tiền là 975.600.000 đồng (chín trăm bảy lăm triệu sáu trăm nghìn đồng).

Trong hai ngày 10/6/2020 và 11/6/2020, Th sử dụng tài khoản Zalo tên “Thi Nhich Thich” nhắn tin đánh bạc (bán số lô, số đề) cho bị cáo Nguyễn Trường Gi qua tài khoản Zalo tên “Ngay tho”, được đăng ký bằng số điện thoại 0912.536.880 của Gi với thủ đoạn đánh lô điểm thì ghi “lô” đến số lô cần đánh sau đó “x” đến số điểm, ký hiệu “đ” đằng sau nghĩa là điểm, số đề thì ghi là “Đề” hoặc “ba càng” đến số đề cần đánh, sau đó “x” với số tiền cần đánh, ký hiệu đằng sau là “n” hoặc “k” nghĩa là nghìn đồng. Khi đã nhận được tin nhắn của Gi thì Th nhắn lại cho Gi là “ok” hoặc “1”, “2”, ... nghĩa là đồng ý đã nhận được 1, 2,... tin nhắn số lô, số đề của Gi. Trong quá trình đánh bạc, Th bán số lô cho Gi với giá 21.700 đồng/1 điểm lô, số đề 02 càng bằng 72% tổng số tiền đánh, số đề 03 càng bằng 73% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 1 điểm lô được trả 80.000 đồng, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày các đối tượng so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua. Hai ngày 10/6/2020 và ngày 11/6/2020, Gi đánh bạc với Th với tổng số tiền đánh là 27.537.000 đồng (hai bảy triệu năm trăm ba bảy nghìn đồng), tổng tiền trúng là 23.000.000 đồng (hai ba triệu đồng), trừ đi số tiền trúng thì Gi phải trả cho Th số tiền là 4.537.000 đồng (bốn triệu năm trăm ba bảy nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa Th và Gi là 50.537.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm ba bảy nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Th và Gi là ngày 11/6/2020 với số tiền là 27.717.000đ (hai bảy triệu bảy trăm mười bảy nghìn đồng). Trong hai ngày đánh bạc Th và Gi chưa thanh toán tiền thắng thua cho nhau.

Từ ngày 26/3/2020 đến ngày 12/6/2020, Th còn sử dụng tài khoản Zalo tên “Thi Nhich Thich” nhắn tin đánh bạc với Nguyễn Văn C (tên gọi khác Nguyễn Đức C) qua tài khoản Zalo tên “Kim Xuân Thành”. Trong đó, từ ngày 26/3/2020 đến ngày 09/6/2020, Th liên tục mua số lô, số đề (Th là người đánh) với C và ngược lại từ ngày 09/6/2020 đến ngày 12/6/2020, C (C là người đánh) liên tục mua các số lô, số đề của Th với thủ đoạn nếu đánh lô điểm thì ghi “lô” hoặc không ghi gì chỉ ghi số lô cần đánh “x” hoặc “.” số điểm và ký hiệu “d” hoặc “đ” phía sau nghĩa là điểm. Số đề thì ghi “Đề” hoặc “ba càng”, lô xiên thì ghi “xiên” sau đó “x” hoặc “.” với số tiền cần đánh, số tiền ký hiệu “k” hoặc “n” phía sau nghĩa là nghìn đồng. Khi nhận được tin nhắn của C thì Th nhắn lại cho C là “ok” hoặc “1”, “2”,... nghĩa là đồng ý đã nhận được 1, 2,... tin nhắn số lô, số đề và ngược lại. Trong quá trình đánh bạc, Th và C thỏa thuận với nhau giá 1 điểm lô là 21.700 đồng, lô xiên bằng 65%, số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 72% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 1 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng, số đề 03 càng trả gấp 70 lần và 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày Th và C so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua. Sau đó chuyển tiền cho nhau, nếu tiền thắng thua còn ít thì để ngày hôm sau đánh và cộng dồn tiếp, phương thức thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt hoặc qua tài khoản ngân hàng. Th sử dụng 03 tài khoản ngân hàng gồm số tài khoản 36210000040174 mang tên Nguyễn Xuân Th, mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu, số tài khoản 7800205005051 mang tên Nguyễn Xuân Th mở tại Ngân hàng Agribank Lai Châu, số tài khoản 46810001488413 mang tên Nguyễn Thị Thu Thủy, mở tại Ngân hàng BIDV Hải Dương. C sử dụng số tài khoản 36210000387237 mang tên Nguyễn Đức C, mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu. Từ ngày 26/3/2020 đến ngày 12/6/2020, tổng số tiền đánh bạc thắng thua giữa Th và C là: 10.566.708.300 đồng (mười tỷ năm trăm sáu mươi sáu triệu bảy trăm linh tám nghìn ba trăm đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Th và C là ngày 30/5/2020 với số tiền là 1.061.327.000 đồng (một tỷ không trăm sáu mươi mốt triệu ba trăm hai bảy nghìn đồng). Toàn bộ quá trình đánh bạc với C, Th thua số tiền là 241.918.300 đồng (hai trăm bốn mươi mốt triệu, chín trăm mười tám nghìn ba trăm đồng).

Từ ngày 28/01/2020 đến ngày 10/6/2020, Th đã sử dụng tài khoản Zalo tên “Thi Nhich Thich” nhắn tin đánh bạc với tài khoản Zalo tên “Nghĩa D3” được đăng ký bằng số điện thoại 0962.482.456 của Trần Xuân Ngh. Quá trình đánh bạc, Th và Ngh thỏa thuận nếu đánh lô điểm thì ghi “lô” đến số lô cần đánh “x” hoặc “.” số điểm và ký hiệu “đ” phía sau nghĩa là điểm. Số đề thì ghi “Đề” hoặc “3 càng”, lô xiên thì ghi “xiên” sau đó “x” hoặc “.” với số tiền cần đánh, số tiền ký hiệu “k” phía sau nghĩa là nghìn đồng. Khi nhận được tin nhắn của Ngh thì Th nhắn lại cho Ngh là “ok” hoặc “1”, “2”,... nghĩa là đồng ý đã nhận được 1, 2, ... tin nhắn số lô, số đề của Ngh. Th và Ngh thỏa thuận với nhau giá 01 điểm lô là 21.900 đồng, lô xiên bằng 70%, số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 73% tổng số tiền đánh. Nếu trúng mức thanh toán như đối với C. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày Th và Ngh so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua. Khi số tiền thắng thua từ 10 đến 15 triệu trở lên thì Th và Ngh sẽ thanh toán với hình thức chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng. Th sử dụng số tài khoản 36210000040174 mang tên Nguyễn Xuân Th, Ngh sử dụng số tài khoản 36210000160586 mang tên Trần Xuân Ngh cùng mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu. Từ ngày 28/01/2020 đến ngày 10/6/2020, tổng tiền đánh của Ngh với Th là 1.048.094.000 đồng (một tỷ không trăm bốn tám triệu không trăm chín mươi tư nghìn đồng), tổng tiền trúng là 992.600.000 đồng (chín trăm chín hai triệu sáu trăm nghìn đồng), trừ đi số tiền trúng thì Ngh phải trả cho Th số tiền là 55.494.000 đồng (năm mươi năm triệu bốn trăm chín mươi bốn nghìn đồng). Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa Ngh với Th là 2.040.694.000 đồng (hai tỷ không trăm bốn mươi triệu sáu trăm chín mươi tư nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Th và Ngh là ngày 27/3/2020 với số tiền là 73.696.800 đồng (bảy mươi ba triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn tám trăm đồng).

Tổng số tiền Nguyễn Xuân Th đánh bạc với Phạm Anh T3, Nguyễn Văn C, Nguyễn Trường Gi và Trần Xuân Ngh là: 18.473.539.300 đồng (mười tám tỷ bốn trăm bảy mươi ba triệu năm trăm ba chín nghìn ba trăm đồng).

4. Bị cáo Nguyễn Văn C: Ngoài hành vi đánh bạc với Nguyễn Xuân Th như đã nêu trên, C còn nhắn tin đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Nguyễn Trọng T5 trong khoảng thời gian từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/6/2020 cụ thể: C sử dụng điện thoại Iphone XS max lắp SIM 0822.933.933, sử dụng tài khoản Zalo tên “Nội Thất Đức C” được đăng ký bằng số điện thoại 0822.933.933 và tài khoản Zalo tên “Kim Xuân Thành” nhắn tin SMS đến số điện thoại 0962.576.962 và nhắn tin Zalo đến tài khoản Zalo tên “Bin” của T5 để đánh bạc.

Quá trình đánh bạc, C và T5 thỏa thuận về hình thức nhắn tin đánh bạc qua tin nhắn là nếu đánh lô điểm thì ghi “lô” hoặc ghi số lô cần đánh “x” hoặc “.” số điểm và ký hiệu “đ” hoặc “điểm” phía sau tức là điểm lô. Số đề thì ghi “Đề” hoặc “không ghi gì”, lô xiên thì ghi “xiên” sau đó “x” hoặc “.” với số tiền cần đánh, số tiền ký hiệu “k” tức là nghìn đồng. Khi nhận được tin nhắn thì C sẽ nhắn lại “ok” hoặc “1”, “2”, “3”... nghĩa là đồng ý đã nhận được 1, 2, 3... tin nhắn số lô, số đề. Trong quá trình đánh bạc, C và T5 thỏa thuận với nhau giá 1 điểm lô là 21.800 đồng, lô xiên, số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 100% tổng số tiền đánh. Nếu trúng mức thanh toán như C đánh với Th. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày C và T5 so sánh với những số lô, số đề đã đánh tính thành tiền thắng, thua để thanh toán với nhau, bằng hình thức chuyển trực tiếp bằng tiền mặt hoặc qua tài khoản ngân hàng sô tài khoản 36210000387237 mang tên Nguyễn Đức C, mở tại Ngân hàng BIDV Lai Châu và sô tài khoản ngân hàng 36210000321347 mang tên Nguyễn Trọng T5 mở tại ngân hàng BIDV chi nhánh Lai Châu. Từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/6/2020, tổng tiền đánh của T5 với C là 567.093.000 đồng (năm trăm sáu bảy triệu không trăm chín mươi ba nghìn đồng), tổng tiền trúng là 689.000.000 đồng (sáu trăm tám mươi chín triệu đồng). Số tiền đánh bạc thua C phải trả cho T5 là 121.907.000 đồng (một trăm hai mươi mốt triệu chín trăm linh bảy nghìn đồng).Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa T5 với C là 1.256.093.000 đồng (một tỷ hai trăm năm mươi sáu triệu không trăm chín mươi ba nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất là ngày 05/5/2020 với số tiền là 93.022.000 đồng (chín mươi ba triệu không trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Tổng số tiền, C đánh bạc với Thanh và T5 là 11.822.801.300 đồng (mười một tỷ tám trăm hai mươi hai triệu, tám trăm linh một nghìn ba trăm đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất của C với Th và T5 là ngày 30/5/2020 với số tiền là 1.069.243.000 đồng (một tỷ không trăm sáu mươi chín triệu hai trăm bốn ba nghìn đồng).

5. Bị cáo Trần Xuân Ngh: Từ ngày 28/01/2020 đến 10/6/2020 Ngh dung điên thoai Iphone 6s màu vàng, lăp sim sô 0962.482.456 và sư dung tài khoản zalo mang tên “:

fgh” được đăng ký bằng số điện thoại trên nhắn tin đánh số lô điểm, số lô xiên, số đề trái pháp luật với Nguyễn Xuân Th qua số tài khoản Zalo tên "Thi Nhich Thich" đăng ký bằng số điện thoại 0962.739.287 với tổng số tiền đánh bạc là 2.040.694.000 đồng (hai tỷ không trăm bốn mươi triệu sáu trăm chín mươi tư nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Ngh và Th là ngày 27/3/2020 với số tiền là 73.696.800 đồng (bảy mươi ba triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn tám trăm đồng).

6. Bị cáo Nguyễn Trọng T5: Với thủ đoạn đánh bạc như Nguyễn Văn C và Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Trọng T5 dùng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S9, màu đen, lắp sim số 0865.836.563 và 0962.576.962 và dùng tài khoản Zalo mang tên “Bin” được đăng ký bằng số điện thoại 0962.576.962 nhắn tin SMS vào số điện thoại 0822.933.933 và 02 tài khoản Zalo mang tên “Kim Xuân Thành” và “Nội Thất Đức C” của Nguyễn Văn C với nội dung đánh số lô điểm, số lô xiên, số đề trái pháp luật với phương thức thủ đoạn và chênh lệch thắng thua do T5 và C thỏa thuận.

Từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/6/2020, T5 đã nhiều lần đánh “lô, đề” với Nguyễn Văn C với tổng sô tiền đánh là 1.256.093.000 đồng (một tỷ hai trăm năm mươi sáu triệu không trăm chín ba nghìn đồng), số tiền T5 đánh bạc thắng C là 121.907.000 đồng (một trăm hai mốt triệu chín trăm linh bảy nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa T5 và C là ngày 05/5/2020 với số tiền là 93.022.000 đồng (chín mươi ba triệu không trăm hai mươi hai nghìn đồng).

7. Bị cáo Vũ Thị V: Ngoài hành vi đánh bạc với Nguyễn Văn Th2 như đa đê câp tai phân pham tôi cua Nguyên Văn Thăng, V còn sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Pro max nắp sim số 0986.778.333, sử dụng tài khoản Zalo tên “MiLan” được đăng ký bằng số điện thoại trên để nhắn tin đánh lô, đề trái pháp luật với Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 và Mạ Thị Ngọc Hà (là các bị cáo trong vụ án) cụ thể:

Trong khoảng thời gian từ ngày 01/6/2020 đến ngày 22/6/2020, V sử dụng phần mềm Zalo tên “MiLan” của mình nhắn tin đánh bạc (bán số lô điểm, lô xiên, số đề trái phép) với Vũ Ngọc Đ qua tài khoản Zalo tên “Vũ Đoán” (V lưu tên trong danh bạ là “Chu doan”), đăng ký bằng số điện thoại 0826.289.523. V và Đ thỏa thuận với nhau về hình thức đánh lô, đề qua tin nhắn phần mềm Zalo bằng cách: Hàng ngày Đ nhận các số lô điểm, số lô xiên, số đề trái pháp luật của người đánh trên địa bàn, sau đó thống kê viết các số lô điểm, số lô xiên và số đề vào một tờ giấy được chia thành các cột. Cột đầu tiên từ trái sang phải là cột ghi các số đề 3 càng, số cần đánh “=” đến số tiền đánh. Khi ghi hết các số đề 03 càng thì cột tiếp theo sẽ là cột ghi các số lô điểm, số lô cần đánh “=” số điểm cần đánh, ký hiệu “đ” đằng sau có nghĩa là điểm lô. Khi ghi hết các số lô điểm thì đến cột ghi các số đề 02 càng. Khi ghi hết các số đề 02 càng thì đến cột ghi các cặp lô xiên thì ký hiệu 02 số, 03 số xiên cần đánh, cách nhau bằng dấu “–” rồi “=” số tiền cần đánh. Đối với các số đề 02 càng, 03 càng và số lô xiên thì số tiền cần đánh là các con số tự nhiên và được quy ước là mệnh giá tiền cần đánh được tính bằng nghìn Việt Nam đồng, ví dụ ghi “=50” nghĩa là đánh 50.000 đồng, “=100” nghĩa là đánh 100.000 đồng. Sau khi ghi các số lô, số đề ra bảng kê, Đ chụp ảnh rồi gửi qua tin nhắn zalo cho V. Khi nhận được tin nhắn (bản ảnh) của Đ thì V sẽ nhắn lại “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận được tin nhắn số lô điểm, số lô xiên, số đề của Đ. Trong quá trình đánh bạc, Đ và V thỏa thuận với nhau giá 1 điểm lô là 21.800 đồng, số lô xiên và số đề 02 càng, số đề 3 càng bằng 75% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 1 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số Miền Bắc hàng ngày, V và Đ so sánh với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua và trực tiếp thanh toán tiền măt vào ngày hôm sau. Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa Đ với V là:

555.725.000 đồng (năm trăm năm mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi lăm triệu đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Trong đó: Tổng tiền đánh là 272.500.000 đồng, tổng tiền trúng là 283.225.000 đồng (hai trăm tám ba triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Tổng số tiền V đánh bạc thua phải trả cho Đ là 10.725.000 đồng (mười triệu bảy trăm hai lăm nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Đ và V là ngày 04/6/2020 với số tiền là 52.950.000 đồng (năm mươi hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Từ ngày 25/02/2018 đến ngày 22/6/2020, V còn sử dụng phần mềm Zalo tên “MiLan” nhắn tin đánh bạc (ghi số lô điểm, lô xiên, số đề trái phép) với Nguyễn Thị Bích L5 qua tài khoản Zalo tên “Gái Họ Lê” (V lưu tên trong danh bạ là “Ba Loi”) được đăng ký bằng số điện thoại 0968723696. V và L5 thỏa thuận với nhau về hình thức đánh lô, đề qua tin nhắn phần mềm Zalo bằng cách: Hàng ngày L5 nhận các số lô điểm, số lô xiên, số đề trái pháp luật của người đánh, sau đó thống kê lại rồi gửi các số lô điểm, lô xiên, số đề qua tin nhắn cho V hoặc sẽ viết các số lô điểm, số lô xiên và số đề vào một tờ giấy được chia thành 06 cột mục sau đó chụp ảnh gửi tin nhắn hình ảnh qua zalo cho V. Nếu gửi tin nhắn các số lô, số đề thì quy ước với nhau ghi “lo” hoặc “de”, “3 càng”... hoặc ghi số cần đánh “=”, “.”, “x” với số tiền, ký hiệu đằng sau “d” nghĩa là điểm thì là đánh lô điểm, ký hiệu đằng sau là “k”, “n” là nghìn đồng là đánh đề, nếu đánh lô xiên thì ghi ‘Xiên” hoặc ký hiệu “X2”, “X3”, “X4” nghĩa là đánh lô xiên 2, xiên 3, xiên 4. Nếu ghi ra giấy thì cột đầu tiên từ trái qua phải (cột số 1) là cột ghi các số lô điểm 10 điểm và 5 điểm (trên là 10 điểm, dưới 5 điểm). Cột thứ 2 là cột ghi các con đề đánh lớn hơn 20 nghìn đồng và được ghi kèm theo giá tiền cụ thể. Cột thứ 3 là cột ghi các cặp lô xiên và được ghi kèm giá tiền cụ thể. Cột thứ 4 là cột ghi các số đề 20 nghìn đồng, cột thứ 5 ghi các số đề 10 nghìn đồng, cột thứ 6 là cột ghi các số đề 5 nghìn đồng, đối với các số đề nhỏ hơn 5 nghìn thì sẽ ghi xuống dưới kèm theo số tiền cụ thể. Các số lô điểm lớn hơn 10 điểm thì L5 sẽ nhắn tin trực tiếp cho V. Khi nhận được tin nhắn của L5 thì V sẽ nhắn lại cho L5 là “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận được tin nhắn số lô điểm, số lô xiên, số đề của L5. L5 và V thỏa thuận với nhau giá 1 điểm lô là 21.800 đồng, số lô xiên và số đề 02 càng, số đề 03 càng bằng 73% tổng số tiền đánh. Nếu trúng 01 điểm lô được trả 80.000 đồng, lô xiên 2 trả gấp 10 lần, lô xiên 3 trả gấp 40 lần, lô xiên 4 trả gấp 100 lần, số đề 02 càng trả gấp 70 lần, số đề 03 càng trả gấp 400 lần số tiền đánh. Sau khi có kết quả xổ số, hàng ngày V và L5 so sánh, đối chiếu kết quả xổ số với những số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua và tiền thắng thua sẽ được V và L5 trực tiếp thanh toán tiền măt vào ngày hôm sau. Tổng số tiền đánh bạc thắng, thua giữa L5 với V là: 935.229.490 đồng (chín trăm ba mươi lăm triệu hai trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm chín mươi đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Trong đó: Tổng số tiền đánh là 502.759.490 đồng, tổng tiền trúng là 432.470.000 đồng (bốn trăm ba hai triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng), do đó số tiền thua lô, đề mà L5 phải trả cho V là 70.289.490 đồng (bảy mươi triệu hai trăm tám chín nghìn bốn trăm chín mươi đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa L5 và V là ngày 23/7/2018 với số tiền là 41.870.200 đồng (bốn mươi mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn hai trăm đồng).

Cùng trong hai ngày 21/6/2020 và ngày 22/6/2020, V tiếp tục sử dụng phần mềm Zalo tên “MiLan” nhắn tin đánh bạc (bán số lô điểm trái phép) với Mạ Thị Ngọc H6 qua tài khoản Zalo tên “Mai Anh Bao”, được đăng ký bằng số điện thoại 0844.290.989.V và H6 thỏa thuận với nhau về hình thức đánh lô, đề qua tin nhắn Zalo nếu: Đánh lô điểm thì ghi “lô” sau đó đến số lô cần đánh “/” số điểm và ký hiệu “đ” phía sau nghĩa là điểm lô. Khi nhận được tin nhắn của H6 thì V nhắn lại cho H6 là “ok” nghĩa là đồng ý đã nhận được tin nhắn của H6. Trong quá trình đánh bạc, V và H6 thỏa thuận với nhau giá 1 điểm lô là 21.800 đồng. Nếu trúng 01 điểm lô được trả 80.000đồng. Sau khi có kết quả xổ số, V và H6 đối chiếu, so sánh với các con số lô, số đề đã đánh để tính ra tiền thắng, thua. Và thống nhất phương thức thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Tổng số tiền trong hai ngày mà V đánh lô, đề với H6 là: 72.710.000 đồng (bảy mươi hai triệu bảy trăm mười nghìn đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Trong đó, tổng tiền đánh là:

20.710.000 đồng (hai mươi triệu bảy trăm mười nghìn đồng), tổng tiền trúng là 52.000.000 đồng (năm mươi hai triệu đồng), trừ đi số tiền đánh thì V phải trả cho H6 là 31.290.000 đồng, ngày đánh cao nhất giữa V và H6 là ngày 22/6/2020 với số tiền là 61.080.000 đồng (sáu mươi mốt triệu không trăm tám mươi nghìn đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Giữa V và H6 vẫn chưa thanh toán tiền đánh bạc với nhau.

Tổng số tiền đánh lô, đề của V với Nguyễn Văn Th2, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 và Mạ Thị Ngọc H6 là 1.640.750.490 đồng (một tỷ sáu trăm bốn mươi triệu bảy trăm năm mươi nghìn, bốn trăm chín mươi đồng), số tiền V đánh lô, đề thua là 811.510 đồng (tám trăm mười một nghìn năm trăm mười đồng). Ngày đánh bạc cao nhất của V với các bị cáo trên là ngày 22/6/2020 với số tiền 110.469.200 đồng (một trăm mười triệu bốn trăm sáu chín nghìn hai trăm đồng).

8. Bị cáo Vũ Ngọc Đ: Từ năm 2019, lợi dụng bố đẻ của bị cáo là ông Vũ Văn Đoán, sinh năm 1968 làm đại lý bán xổ số cho Công ty xổ số Lai Châu. Đại lý có tên “Đoán 541” hàng ngày mỗi khi có người đến mua xổ số, ngoài việc ghi xổ số lô tô Nhà nước, nếu ai có nhu cầu đánh lô điểm, đề trái pháp luật để hưởng phần trăm chênh lệch cao hơn so với Nhà nước thì Đ nhân sô lô, sô đê rôi chuyển cho Vũ Thị V để hưởng tiền chênh lệch.

Từ ngày 01/6/2020 đến ngày 22/6/2020, Đ đã sử dụng điện thoại Samsung J8 màu đen, lắp sim số điện thoại 0984.568.018 và sử dụng tài khoản Zalo tên “Vũ Đoán” được đăng ký bằng số điện thoại 0826.289.523 (tài khoản zalo của ông Vũ Văn Đoán) để nhắn tin chuyển các số lô điểm, lô xiên, số đề trái pháp luật cho Vũ Thị V qua tài khoản Zalo tên “Milan”, mọi phương thức, thủ đoạn, hình thức thức đánh bạc, giá thỏa thuận, ký hiệu đánh bạc, cách thức chuyển tiền đánh bạc giữa V và Đ như đã nêu tại phần diễn biến hành vi phạm tội của Vũ Thị V, đó là: Trong khoảng thời gian từ ngày 01/6/2020 đến ngày 22/6/2020, Đ đã đánh lô, đề trái pháp luật với V với tổng số tiền là: 555.725.000 đồng (năm trăm năm mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Trong đó: Tổng tiền Đ đánh là 272.500.000 đồng (hai trăm bảy mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng), tổng tiền Đưc trúng là 283.225.000 đồng (hai trăm tám ba triệu hai trăm hai mươi năm nghìn đồng), trừ đi số tiền trúng thì V phải trả cho Đ số tiền là 10.725.000 đồng (mười triệu bảy trăm hai lăm nghìn đồng). Ngày đánh lô, đề cao nhất giữa Đ và V là ngày 04/6/2020 với số tiền là 52.950.000 đồng (năm mươi hai triệu) đồng.

9. Bị cáo Nguyễn Thị Bích L5: Lợi dụng được làm đại lý ghi xổ số cho Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Lai Châu, L5 đã ghi các số lô, số đề trái pháp luật, mỗi khi ai có nhu cầu ghi các số lô, số đề trái pháp luật thì L5 lại nhân rồi chuyển các con số lô, đề cho Vũ Thị V để ăn phần trăm chênh lệch. Từ ngày 25/2/2018 đến ngày 22/6/2020,L5 đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 màu vàng tải ứng dụng Zalo đăng ký tài khoản tên "Gái Họ Lê" bằng số điện thoại 0968.723.696 để nhắn tin mua bán các số lô, số đề trái pháp luật với tài khoản Zalo tên “Milan” của V. Tổng số tiền L5 đánh lô, đề với V là 935.229.490 đồng (chín trăm ba mươi lăm triệu hai trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm chín mươi đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Trong đó: Tổng số tiền đánh là 502.759.490 đồng, tổng tiền trúng là 432.470.000 đồng (bốn trăm ba hai triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng), số tiền đánh lô, đề L5 phải trả cho V là 70.289.490 đồng. Và ngày đánh lô, đề cao nhất giữa L5 và V là ngày 23/7/2018 với số tiền là 41.870.200 đồng (bốn mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn hai trăm đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng.

Ngoài ra, trong vụ án còn có H6nh vi phạm tội của các bị cáo Mạ Thị Ngọc H6, Nguyễn Trường Gi, Đinh Quốc T8, Vương Ngọc Tú, Phạm Quang H7, Lương Quỳnh L7, tuy nhiên các bị cáo này không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị và hành vi của các bị cáo như nêu trên là cụ thể từng hành vi tương ứng với từng bị cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không tóm tắt lại hành vi của các bị cáo này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HS-ST ngày 02/4/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu đã quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Phạm Anh T3, Nguyễn Văn Th2, Nguyễn Văn C, Vũ Thị V, Trần Xuân Ngh, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 phạm tội “Đánh bạc”.

1.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Th 48 tháng tù, được khấu trừ 03 tháng 25 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 44 tháng 05 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.

1.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 48 tháng tù, được khấu trừ 02 tháng 03 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 45 tháng 27 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng 1.3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Anh T3 48 tháng tù, được khấu trừ 03 tháng 25 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 44 tháng 05 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.

1.4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th2 36 tháng tù, được khấu trừ 03 tháng 07 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 32 tháng 23 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng 1.5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Xuân Ngh 36 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

1.6 .Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Thị V 36 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

1.7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T5 36 tháng tù, được khấu trừ 01 tháng 16 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 34 tháng 14 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng 1.8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Ngọc Đ 36 tháng tù, được khấu trừ 01 tháng 22 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 34 tháng 08 ngày tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

1.9. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 18 tháng tù, được khấu trừ 01 tháng 21 ngày tạm giữ, tạm giam, còn phải thi hành 16 tháng 09 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác; xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/4/2021, các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn Th2, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 10/4/2021, bị cáo Phạm Anh T3 kháng cáo xin giảm hình phạt; bị cáo Trần Xuân Ngh kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo đều giữ nguyên nội dung kháng cáo, khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm quy kết và thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “đánh bạc” là đúng, không oan. Các bị cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

- Bị cáo Nguyễn Xuân Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình, bị cáo là lao động chính, bố mẹ đã già yếu, có con nhỏ, vợ bị cáo đang mang thai, công việc không ổn định; bị cáo luôn chấp hành tốt chủ trương, chính sách tại địa phương; trong quá trình công tác tại Cục quản lý thị trường tỉnh Lai Châu, bị cáo có nhiều đóng góp trong công tác phòng chống tội phạm buôn bán hàng giả hàng lậu kém chất lượng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; gia đình bị cáo có công với cách mạng; bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

- Bị cáo Nguyễn Văn C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình, bị cáo là lao động chính, bố mẹ đã già yếu, có con nhỏ, vợ bị cáo không có công việc ổn định; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; gia đình bị cáo có công với cách mạng; bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

- Bị cáo Phạm Anh T3 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, bố mẹ bị cáo đã già yếu, có 02 con nhỏ, vợ bị cáo công việc không ổn định; bị cáo luôn là công dân gương mẫu, chấp hành chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật tại địa phương, nhiệt tình tham gia các hoạt động đoàn thể; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; gia đình bị cáo có công với cách mạng, bác ruột bị cáo là liệt sỹ.

- Bị cáo Nguyễn Văn Th2 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, bị cáo là lao động chính trong gia đình; bố mẹ bị cáo đã già yếu, nhiều bệnh tật, có con nhỏ mới sinh; bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên và tích cực tham gia ủng hộ lũ lụt được chính quyền địa phương ghi nhận.

- Bị cáo Trần Xuân Ngh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bố mẹ bị cáo đã già yếu, có 02 con nhỏ; bị cáo có nhân thân tốt, luôn chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; trong quá trình công tác tại Cục quản lý thị trường tỉnh Lai Châu, bị cáo có nhiều đóng góp trong công tác tuyên truyền, đấu tranh và phòng chống các hành vi sản xuất hàng giả, kém chất lượng, hàng hóa không đảm bảo; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; gia đình bị cáo có công với cách mạng, bác ruột bị cáo là liệt sỹ; bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên và đã 02 lần tham gia ủng hộ lũ lụt tại địa phương.

- Bị cáo Vũ Thị V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo vừa sinh con nhỏ được hơn 02 tháng tuổi; bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bố mẹ già yếu không người chăm sóc; mặc dù, hoàn cảnh rất khó khăn nhưng bị cáo vẫn tích cực nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên; bị cáo đã lập công chuộc tội được Công an huyện Phong Thổ xác nhận và tham gia ủng hộ lũ lụt.

- Bị cáo Nguyễn Trọng T5 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bố bị cáo mất sớm, mẹ già yếu, con bị cáo còn nhỏ dại, vợ không có công việc làm ổn định, nếu bị cáo phải cách ly đi chấp hành hình phạt tù thì càng khó khăn hơn; bị cáo cũng đã tự nguyện tích cực nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

- Bị cáo Vũ Ngọc Đ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, mẹ bị cáo đã mất, hiện bị cáo phải chăm sóc bố đã già yếu, thường xuyên ốm đau; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án; bị cáo còn lập công chuộc tội được Công an huyện Phong Thổ xác nhận; đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên.

- Bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính; bị cáo có mẹ già trên 90 tuổi sức khỏe yếu cần người chăm sóc; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã lập công chuộc tội, cung cấp thông tin cho Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lai Châu theo dõi, xác minh các đối tượng có hành vi ghi lô đề trái phép, được Công an tỉnh Lai Châu xác nhận; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt, án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên và lập công chuộc tội được Công an thành phố Lai Châu xác nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, đánh giá các tình tiết có trong hồ sơ vụ án cũng như hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo, đánh giá việc tại phiên tòa hôm nay một số bị cáo có tình tiết mới như: Có thành tích giúp đỡ Cơ quan chức năng trong việc phát hiện tội phạm, là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, đã nộp án phí sơ thẩm và tiền phạt, tham gia ủng hộ quỹ phòng chống lũ lụt. Đồng thời, đánh giá nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 355, 357 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, cụ thể như sau:

Đối với bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 là những bị cáo giữ vai trò chính và số tiền tham gia đánh bạc rất lớn trong vụ án. Mặc dù, tại phiên tòa các bị cáo xuất trình 01 số tình tiết giảm nhẹ mới nhưng thấy hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo và không nặng nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Th, C, T3 giữ nguyên tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên.

Đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Trần Trọng Tuấn, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị L5, xét thấy các bị cáo tham gia đánh bạc với số tiền ít hơn nhóm các bị cáo đầu vụ, tại phiên tòa các bị cáo đều xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới nên có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, cụ thể: bị cáo Th2 giảm nhẹ 12 tháng;

bị cáo Đ giảm nhẹ 09 tháng; các bị cáo Ngh, V, T5, L5 giảm nhẹ mỗi bị cáo 06 tháng tù.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, nên các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn Th2, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5, Phạm Anh T3, Trần Xuân Ngh trong hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai các bị cáo khác, phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Phạm Anh T3, Nguyễn Văn Th2, Nguyễn Xuân Th, Vũ Thị V, Nguyễn Thị Bích L5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Trọng T5, Nguyễn Văn C (Nguyễn Đức C), Trần Xuân Ngh cùng với Mạ Thị Ngọc Hà, Nguyễn Trường Gi, Đinh Quốc T8, Vương Ngọc T3, Phạm Quang H7, Lương Quỳnh L7 đã có hành vi sử dụng điện thoại di động thông minh nhắn tin qua tin nhắn điện thoại SMS, tin nhắn ứng dựng Zalo để đánh bạc bằng hình thức trao đổi, mua bán số lô, số đề với tổng số tiền dùng đánh bạc là 23.724.627.790 đồng (Hai mươi ba tỷ bảy trăm hai bốn triệu sáu trăm hai bảy ngàn bảy trăm chín mươi đồng), cụ thể như sau:

Bị cáo Nguyễn Xuân Th: Từ ngày 28/01/2020 đến ngày 12/6/2020, Th đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Phạm Anh T3, Nguyễn Văn C, Nguyễn Trường Gi và Trần Xuân Ngh với tổng số tiền dùng đánh bạc là 18.473.539.300 đồng (mười tám tỷ bốn trăm bảy mươi ba triệu năm trăm ba chín nghìn ba trăm đồng). Th đánh bạc ngày cao nhất là ngày 30/5/2020 với số tiền là 1.061.327.000 đồng (một tỷ không trăm sáu mươi mốt triệu ba trăm hai bảy nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn C: Từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/6/2020, C đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Trọng T5 với tổng số tiền dùng đánh bạc là 11.822.801.300 đồng (mười một tỷ tám trăm hai mươi hai triệu tám trăm linh một nghìn ba trăm đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất của C với Nguyễn Xuân Th và Nguyễn Trọng T5 là ngày 30/5/2020, với số tiền là 1.069.243.000 đồng (một tỷ không trăm sáu mươi chín triệu hai trăm bốn ba nghìn đồng).

Bị cáo Phạm Anh T3: Từ ngày 17/5/2020 đến 08/6/2020, T3 đã có hành vi nhiều đánh bạc cùng với Nguyễn Văn Th2, Nguyễn Xuân Th với tổng số tiền dùng đánh bạc là 7.973.200.000 đồng (bảy tỷ chín trăm bảy mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất của T3 với Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn Th2 là ngày 02/6/2020 với số tiền là 1.144.200.000 đồng (một tỷ một trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn Th2: Từ tháng 03/2020 đến tháng 06/2020, Th2 đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Phạm Anh T3, Phạm Quang H7, Vũ Thị V với tổng số tiền dùng đánh bạc là 2.259.631.000 đồng (hai tỷ hai trăm năm mươi chín triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng), trong đó ngày đánh bạc cao nhất của Th2 là ngày 02/6/2020 với tổng số tiền là 571.800.000 đồng (năm trăm bảy mốt triệu tám trăm nghìn đồng).

Bị cáo Trần Xuân Ngh: Từ ngày 28/01/2020 đến 10/6/2020, Ngh đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Nguyễn Xuân Th với tổng số tiền đánh bạc là 2.040.694.000 đồng (hai tỷ không trăm bốn mươi triệu sáu trăm chín mươi tư nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất giữa Ngh và Nguyễn Xuân Th là ngày 27/3/2020 với số tiền là 73.696.800 đồng (bảy mươi ba triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn tám trăm đồng).

Bị cáo Vũ Thị V: Từ ngày 25/02/2018 đến ngày 22/6/2020, V đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Nguyễn Văn Th2, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 và Mạ Thị Ngọc Hà với tổng số tiền là 1.640.750.490 đồng (một tỷ sáu trăm bốn mươi triệu bảy trăm năm mươi nghìn bốn trăm chín mươi đồng). Ngày đánh bạc cao nhất của V với các bị cáo trên là ngày 22/6/2020 có tổng số tiền là 110.469.200 đồng (một trăm mười triệu bốn trăm sáu chín nghìn hai trăm đồng).

Bị cáo Nguyễn Trọng T5: Từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/6/2020, T5 đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Nguyễn Văn C với tổng sô tiền dùng đánh bạc là 1.256.093.000 đồng (một tỷ hai trăm năm mươi sáu triệu không trăm chín ba nghìn đồng), ngày đánh bạc cao nhất là ngày 05/5/2020 với số tiền là 93.022.000 đồng (chín mươi ba triệu không trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Bị cáo Vũ Ngọc Đ: Từ ngày 01/6/2020 đến ngày 22/6/2020, Đ đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Vũ Thị V với tổng số tiền dùng đánh bạc là 555.725.000 đồng (năm trăm năm mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng, ngày đánh lô, đề cao nhất giữa Đ và Vũ Thị V là ngày 04/6/2020 với số tiền là 52.950.000 đồng (năm mươi hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Thị Bích L5: Từ ngày 25/2/2018 đến ngày 22/6/2020, L5 đã có hành vi nhiều lần đánh bạc cùng Vu Thi V với tổng số tiền là 935.229.490 đồng (chín trăm ba mươi lăm triệu hai trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm chín mươi đồng) bao gồm cả tiền đánh và tiền trúng. Ngày đánh lô, đề cao nhất giữa L5 và Vũ Thị V là ngày 23/7/2018 với số tiền là 41.870.200 đồng (bốn mốt triệu tám trăm bảy mươi nghìn hai trăm đồng).

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C (Nguyễn Đức C), Phạm Anh T3, Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự và bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm còn xác định hành vi phạm tội, tội danh của các bị cáo Mạ Thị Ngọc Hà, Nguyễn Trường Gi, Đinh Quốc T8, Vương Ngọc Tú, Phạm Quang H7, Lương Quỳnh L7. Tuy nhiên, các bị cáo này không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không đề cập đến.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng và sự quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội, sự bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân tại địa phương, là một trong các nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, một phần ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của nhiều gia đình và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn là nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, nên cần phải áp dụng hình phạt tương xứng mới có tác dụng cải tạo giáo dụng các bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét kháng cáo của từng bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy:

[4.1] Các bị cáo trong vụ án đều là những người thực hành trong đồng phạm, không tụ tập trực tiếp đánh lô, đề, việc phân hóa vai trò, mức độ trên cơ sở tổng số tiền đánh bạc trong khoảng thời gian xác định, số tiền đánh bạc cao nhất trong ngày, trong khoảng thời gian đó và số lần đánh bạc. Các bị cáo đều tham gia đánh bạc nhiều ngày, nhiều lần, số tiền đánh bạc đều đã đủ yếu tố cấu thành tôi phạm, số tiền đánh bạc đều trên 50 triệu đồng, các bị cáo bị quy kết theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù; bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 bị quy kết theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự có mức cao nhất đến 03 năm tù.

[4.2] Quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào nhân thân các bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; Các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Vũ Ngọc Đ đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm, Cơ quan điều tra có văn bản đề nghị; gia đình các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3, Vũ Thị V, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 có công với Nhà nước, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên mức án 48 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 và mức án 36 tháng tù đối với bị cáo Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, mức án 18 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 là có căn cứ.

[4.3] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo có xuất trình thêm tình tiết mới, cụ thể:

Bị cáo Nguyễn Xuân Th xuất trình tài liệu là Đơn xin xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương; biên lai nộp tiền phạt bổ sung;

Bị cáo Nguyễn Văn C xuất trình tài liệu là biên lai nộp tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo Phạm Anh T3 xuất trình tài liệu là Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương;

Bị cáo Nguyễn Văn Th2 xuất trình tài liệu là Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương; Giấy xác nhận của địa phương bị cáo ủng hộ lũ lụt 20.000.000 đồng, 50 thùng mỳ tôm, 20 bộ quần áo và biên lai nộp tiền phạt bổ sung;

Bị cáo Trần Xuân Ngh xuất trình tài liệu là Giấy xác nhận của địa phương bị cáo ủng hộ lũ lụt 02 lần số tiền 23.000.000 đồng, 150 thùng mỳ tôm, 200kg gạo tẻ và biên lai nộp tiền phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo Vũ Thị V xuất trình tài liệu là Giấy xác nhận của địa phương bị cáo ủng hộ lũ lụt; Giấy xác nhận của Công an huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu về việc bị cáo tham gia tố giác tội phạm và biên lai nộp tiền phạt bổ sung;

Bị cáo Nguyễn Trọng T5 xuất trình tài liệu là biên lai nộp tiền phạt bổ sung; Bị cáo Vũ Ngọc Đ xuất trình tài liệu là Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương; Giấy xác nhận của Công an huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu về việc bị cáo tham gia tố giác tội phạm và biên lai nộp tiền phạt bổ sung;

Bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 xuất trình tài liệu là Giấy xác nhận của Công an thành phố Lai Châu về việc bị cáo tham gia tố giác tội phạm và biên lai nộp tiền phạt bổ sung;

[4.4] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 thấy: Trong vụ án này, tổng số tiền mà các bị cáo Th, C, T3 sử dụng vào việc đánh bạc là đặc biệt lớn; bị cáo Nguyễn Xuân Th đã từng bị xét xử về tội “Đánh bạc”, mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội; bị cáo Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 số tiền tham gia đánh bạc chỉ sau bị cáo Th và Tòa án cấp sơ thẩm xác định vai trò sau bị cáo Th. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo xuất trình một số tình tiết giảm nhẹ mới, tuy nhiên trên cơ sở phân tích diễn biến vụ án, tính chất hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo, hậu quả, trên cơ sở xem xét, đánh giá, áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 với mức án 48 tháng tù là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 mà cần chấp nhận quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo.

[4.5] Đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm trong vụ án, số tiền phạm tội của các bị cáo ít hơn nhiều so với các bị cáo ở nhóm đầu vụ. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo xuất trình thêm một số tình tiết giảm nhẹ mới thể hiện các bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền phạt và án phí theo bản án sơ thẩm đã tuyên; bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V trong quá trình sinh sống tại địa phương đã tích cực tham gia hoạt động xã hội làm từ thiện; bị cáo V, Đ, L5 đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm, Cơ quan điều tra có văn bản đề nghị; các bị cáo Th2, Đ có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo tiếp tục tỏ thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, xét thấy các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 theo quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để các bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội trở về hòa nhập với gia đình và xã hội.

[4] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Về việc áp dụng pháp luật: Bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 bị truy tố, xét xử theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, bị cáo tham gia đánh bạc nhiều lần, kéo dài nhiều năm. Bị cáo đã đánh bạc nhiều lần mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự như đã nêu trên. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá và cho rằng bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không phù hợp diễn biến thực tế hành vi phạm tội của bị cáo, mà tinh thần của tình tiết này cần được hiểu là trường hợp khi đưa ra xét xử đối với bị cáo thực hiện hành vi có một lần cấu thành tội phạm duy nhất và trường hợp phạm tội này thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đánh giá, xem xét lại và không cho bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 được hưởng tình tiết giảm nhẹ này.

[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C (Nguyễn Đức C), Phạm Anh T3; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HS-ST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu đối với các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3, cụ thể:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Phạm Anh T3, Nguyễn Văn C phạm tội “Đánh bạc”.

[1.1]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Th 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 05/10/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.

[1.2]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 05/10/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng [1.3]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Anh T3 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 05/10/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.

[2]. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HS-ST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu về hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5, cụ thể như sau:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 phạm tội “Đánh bạc”.

[2.1]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th2 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 đến ngày 17/9/2020. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

[2.2]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Xuân Ngh 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

[2.3]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Thị V 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

[2.4]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T5 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 18/9/2020. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

[2.5]. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Ngọc Đ 27 (Hai mươi bảy) tháng năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến ngày 18/9/2020. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000 đồng.

[2.6]. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích L5 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến ngày 17/9/2020. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng.

- Xác nhận bị cáo Nguyễn Xuân Th đã nộp số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) tại Biên lai số 0000862 ngày 20/8/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu.

- Xác nhận bị cáo Nguyễn Văn C đã nộp số tiền 20.200.000đ (hai mươi triệu hai trăm nghìn đồng) tại các Biên lai số 0000816 ngày 02/4/2021, Biên lai số 0000863 ngày 20/8/2021 và Biên lai số 0000865 ngày 10/9/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu.

- Xác nhận bị cáo Phạm Anh T3 đã nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai số 0000811 ngày 02/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu.

- Xác nhận bị cáo Trần Xuân Ngh đã nộp số tiền 15.200.000đ (mười lăm triệu hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai số 0000821 ngày 27/4/2021 và Biên lai số 0000815 ngày 02/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu.

- Xác nhận bị cáo Nguyễn Trọng T5 đã nộp số tiền 15.200.000đ (mười lăm triệu hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai số 0000858 ngày 12/5/2021 và Biên lai số 0000821 ngày 24/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu.

[3]. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Văn C, Phạm Anh T3 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm; các bị cáo Nguyễn Văn Th2, Trần Xuân Ngh, Vũ Thị V, Nguyễn Trọng T5, Vũ Ngọc Đ, Nguyễn Thị Bích L5 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

674
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 104/2022/HS-PT

Số hiệu:104/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về