Bản án về tội đánh bạc số 10/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N - tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 89/2023/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2023 và theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01 ngày 10 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn D; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày: 14/10/1988; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng N, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: lao động tự do; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Chức vụ đảng, đoàn thể: không; Con ông: Bùi Anh Đ - sinh năm 1958 và bà Lê Thị C -sinh năm 1958; Vợ: Trương Thị D1 - sinh năm 1987; Con: có 3 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/10/2018 bị TAND huyện N xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, đã đọc xóa án tích. BỊ cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại. Có mặt.

2. Lờ Hồng C1; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày: 09/12/1990; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng Nhâm, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Chức vụ Đảng, đoàn thể: không; Con ông Lê H Quảng sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị L - 1958; Vợ Đậu Thị B sinh năm 1991 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023. Có mặt.

3. Hoàng Văn C2; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày: 02/9/1994; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng D, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: lao động tự do; Q tịch: Việt nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 2/12; chức vụ đảng, đoàn thể: không; Con ông: Hoàng Văn T sinh năm 1971 và bà: Hồ Thị H1 sinh năm 1971; Vợ Ngân Thị H sinh năm 1994 và có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2023; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/10/2018 bị TAND huyện N xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; Bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại; Có mặt.

4. Văn Đạo; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày: 25/8/1987; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng Dừa, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Q tịch: Việt nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Lê Văn Đ - sinh năm 1964 và bà: Hồ Thị C - sinh năm 1965; Vợ Nguyễn Thị T sinh năm 1979 và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại. Có mặt.

5. Nguyễn Văn Hng; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày: 06/8/1980; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng Nhâm, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Q tịch: Việt nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 0/12; chức vụ đảng, đoàn thể: không; Con ông: Nguyễn Anh Diệm sinh năm 1951 và bà: Hoàng Thị T - sinh năm 1952; Vợ Phạm Thị H sinh năm 1987 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/10/2018 bị TAND huyện N xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”. Bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại. Có mặt.

6. Khc Tuệ; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; Sinh ngày: 24/9/1978; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng N, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: lao động tự do; Q tịch: Việt nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 4/12; chức vụ đảng, đoàn thể: không; Con ông: Lê Khắc D và bà: Trần Thị M; Vợ: Lô Thị Ng - sinh năm 1978; Con: có 2 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại; Có mặt.

7. Lê Văn B; tên gọi khác: không; giới tính: nam; Sinh ngày 15/02/1989; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Làng N, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ A; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 0/12; chức vụ đảng, đoàn thể: không; Con ông: Lê Ngọc Đ đã chết và bà: Trơng Thị X sinh năm 1963; Vợ Lô Thị T - sinh năm 1990; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 được tại ngoại; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 20 giờ 30 ngày 28 tháng 9 năm 2023, Lê Hồng C1 rủ Bùi Văn D, Nguyễn Văn H2, Lê Khắc T, Lê Văn B, Hoàng Văn C2, Lê Văn Đ1 cùng trú tại xã N, huyện N đánh bạc bằng hình thức “xóc đĩa” ăn tiền tại lán hoang thuộc địa phận làng N, xã N thì mọi người đồng ý. Khi đi ra lán, C2 cầm theo 01 chiếc chiếu nhựa, 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng và 01 chiếc kéo để cắt 04 con xúc xắc hình tròn từ lá bài tú lơ khơ để làm công cụ đánh bạc. Các bị cáo quy định như sau: mỗi ván bài đặt cược từ 100.000đ đến 500.000đ, người cầm cái là Bùi Văn D, hình thức đánh “chẵn và lẻ” tức là nếu xóc 04 con xúc xắc ra 02 mặt xanh và 02 mặt trắng hoặc 04 mặt xanh hoặc 04 mặt trắng là chẵn còn ra 01 mặt xanh, 03 mặt xanh, 01 mặt đỏ, 03 mặt đỏ là cửa lẻ. Quá trình đánh bạc, Hoàng Văn C2 không có tiền nên Nguyễn Văn H2 đã cho C2 mượn số tiền 500.000đ. Đến khoảng 22 giờ 30 cùng ngày, khi các đối tượng nêu trên đang đánh bạc thì bị tổ công tác công an huyện N phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc số tiền 9.500.000đ, 01 chiếc chiếu nhựa, 01 đĩa sứ, 01 bát sứ, 01 chiếc kéo sắt, 04 con xúc xắc cùng số tiền 4.000.000đ thu giữ trong ví của Lê Văn B.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai sử dụng số tiền đánh bạc như sau: Lê Hồng C1 sử dụng 2.000.000đ; Bùi Văn D sử dụng 2.000.000đ; Hoàng Văn C2 sử dụng 500.000đ; Lê Văn Đ1 sử dụng 1.400.000đ; Nguyễn Văn H2 sử dụng 1.250.000đ; Lê Khắc T sử dụng 1.000.000đ; Lê Văn B sử dụng 1.350.000đ. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 9.500.000đ.

Đối với số tiền 4.000.000đ thu giữ của Lê Văn B đã chứng minh được B không dùng số tiền này đế đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã làm thủ tục trả lại số tiền trên cho Lê Văn B.

Cáo trạng số 02/VKS-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố các các bị cáo Lê Hồng C1, Bùi Văn D, Hoàng văn Văn C3, Lê Văn Đ1, Nguyễn Văn H2, Lê Khắc T, Lê Văn B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện N giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý đối với các bị cáo như sau: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H2 và bị cáo Lê Hồng C1 mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, miễn phạt bổ sung cho bị cáo; xử phạt Hoàng Văn C3 và bị cáo Bùi Văn D mỗi bị cáo từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập mỗi bị cáo từ 300.000đ đến 500.000đ/tháng trong thời gian phạt cải tạo không giam giữ; xử phạt các bị cáo Lê Văn Đ1, Lê Văn B, Lê Khắc T mỗi bị cáo từ 20.000.000đ đến 22.000.000đ.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 9.500.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu nhựa; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 bát sứ màu trắng; 01 chiếc kéo bằng kim loại; 04 con xúc xắc hình tròn.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh rất khó khăn.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã được thẩm tra lại tại phiên tòa. Từ đó xác định được: Vào tối ngày 28/9/2023 tại lán hoang thuộc Làng N, xã N, huyện N các bị cáo Lê Hồng C1, Bùi Văn D. Hoàng Văn C3, Lê Văn Đl, Nguyễn Văn H2, Lê Khắc T, Lê Văn B đã đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày Công an huyện N đã phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 9.500.000đ cùng các dụng cụ phục vụ cho việc đánh bạc. Các bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc cụ thể như sau: Lê Hồng C1 sử dụng 2.000.000đ; Bùi Văn D sử dụng 2.000.000đ; Hoàng Văn C3 sử dụng 500.000đ; Lê Văn Đ1 sử dụng 1.400.000đ; Nguyễn Văn H2 sử dụng 1.250.000đ; Lê Khắc T sử dụng 1.000.000đ; Lê Văn B sử dụng 1.350.000đ. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 9.500.000đ. Nh vậy Hội đồng xét xử đủ căn cứ để kết luận các bị cáo đã phạm tội đánh bạc. Các bị cáo dùng tổng số tiền để đánh bạc là 9.500.000đ. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố các bị cáo này tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 như cáo trạng quy kết là đúng quy định pháp luật.

Đây là vụ án do các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng gây mất trật tự trị an tại địa phương do vậy cần phải xử lý nghiêm.

Xét vai trò, vị trí của từng bị cáo trong vụ án: Bị cáo Lê Hồng C1 là người rủ rê, chuẩn bị công cụ để đánh bạc, vì vậy bị cáo này phải chịu hình phạt chính trong vụ án. Các bị cáo Bùi Văn D, Hoàng Văn C3, Nguyễn Văn H2 có nhân thân xấu. Các bị cáo Lê Hồng C1, Lê Văn Đ1, Lê Khắc T, Lê Văn B phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo Lê Hồng C1, Lê Văn Đ1, Lê Khắc T, Lê Văn B phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo Bùi Văn D có mẹ được tặng huy hiệu chiến sỹ T; bị cáo Lê Hồng C1, Lê Văn B có ông bà được Nhà nước tặng huy chương kháng chiến; bị cáo Nguyễn Văn H2 có bố được tặng thưởng huân chương kháng chiến; Lê Khắc T có bố mẹ được tặng huy chương kháng chiến, Lê Khắc Đ2, Hoàng Văn C3 có ông bà có công với nước được tặng thưởng huy chương kháng chiến . Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, kết hợp với việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy các bị cáo phạm tội giản đơn, số tiền dùng vào việc đánh bạc không lớn nên chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà cho các bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, giao về cho chính quyền quản lý giáo dục cũng đủ nghiêm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N là hợp lý.

Về vật chứng: số tiền 9.500.000 đồng là số tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước; Đối với 01 chiếc chiếu nhựa; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 bát sứ màu trắng; 01 chiếc kéo bằng kim loại; 04 con xúc xắc hình tròn đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo trong vụ án đa phần là những người làm nông nghiệp, thu nhập thấp nên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Miễn án phí cho bị cáo Bùi Văn D do là hộ cận nghèo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Hồng C1, Bùi Văn D, Nguyễn Văn H2, Lê Văn Đ1, Lê Khắc T, Lê Văn B, Hoàng Văn C3 phạm tội “Đánh bạc”.

Về điều khoản áp dụng:

Áp dụng khoản 1 điều 321; điềm i, s khoản 1, 2 điều 51, điều 65 BLHS đối với Lê Hồng C1;

Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 65 BLHS đối với Nguyễn Văn H2;

Áp dụng khoản 1 điều 321; điềm i, s khoản 1, 2 điều 51, điều 36 BLHS đối với Lê Văn B, Lê Khắc T.

Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 36 BLHS đối với Bùi Văn D.

Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 36 BLHS đối với Hoàng Văn C3.

Áp dụng khoản 1 điều 321; điềm i, s khoản 1, 2 điều 51, điều 35 BLHS đối với Lê Văn Đ1.

Về hình phạt:

Xử phạt Lê Hồng C1 16 (mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt Nguyễn Văn H2 16 (mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Lê Hồng C1, Nguyễn Văn H2 về cho UBND xã N, Huyện N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Xử phạt Bùi Văn D 20 (hai mươi) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ thời gian tạm giữ trước đó 09 ngày bằng 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 19 (mười chín) tháng 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N nhận được quyết định thi hành án. Giao bị cáo về cho UBND xã N, huyện N, giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo do là hộ cận nghèo.

Xử phạt Hoàng Văn C3 20 (hai mươi) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ thời gian tạm giừ trước đó 09 ngày bằng 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 19 (mười chín) tháng 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N nhận được quyết định thi hành án. Giao bị cáo về cho UBND xã N, huyện N, giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Khấu trừ thu nhập bị cáo mỗi tháng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Xử phạt Lê Văn B 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ thời gian tạm giữ trước đó 09 ngày bằng 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N nhận được quyết định thi hành án. Giao bị cáo về cho UBND xã N, huyện N, giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Khấu trừ thu nhập bị cáo mỗi tháng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Xử phạt Lê Khắc T 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ thời gian tạm giữ trước đó 09 ngày bằng 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện N nhận được quyết định thi hành án. Giao bị cáo về cho UBND xã N, huyện N, giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Khấu trừ thu nhập bị cáo mỗi tháng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Xử phạt Lê Văn Đ1 20.000.000d (hai mươi triệu đồng).

- Về vật chứng: áp dụng khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà Nước số tiền 9.500.000đ (chín triệu năm trăm nghìn đồng). Tịch thu tiêu hủy: 01 bát sứ màu trắng, bát đã qua sử dụng; 01 đĩa sứ màu trắng, đĩa đã qua sử dụng; 04 con xúc xắc hình tròn được cắt từ lá bài tú lơ khơ; 01 chiếc kéo được làm bằng kim loại đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu nhựa, chiếu nhựa đã qua sử dụng. Cụ thể vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/12/2023 giữa cơ quan công an huyện N và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện N.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc các Lê Hồng C1, Nguyễn Văn H2, Lê Văn Đ1, Lê Văn B, Lê Khắc T, Hoàng Văn C3 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí cho bị cáo Bùi Văn D do là hộ cận nghèo.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 10/2024/HS-ST

Số hiệu:10/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về