Bản án về tội đánh bạc số 101/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 101/2023/HS-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai và điểm cầu thành phần - Hội trường xét xử trực tuyến - Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 137/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 120/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến L (tên gọi khác: U), sinh năm 1992, tại Đồng Nai, CCCD số 075092004480; nơi cư trú: Ấp A, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp:

Làm thuê; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (Chết) và bà Đào Thị N (Chết); bị cáo là con út trong gia đình có hai anh em, có vợ Thái Thị Quyên U1 (Chết) và chưa có con.

- Tiền án: Ngày 06/3/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 (Tám) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo Bản án số 25/2020/HS-ST, chấp hành xong ngày 08/02/2021.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 15/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) về tội “Đánh bạc”, theo Bản án số 65/2011/HS-ST, đã chấp hành xong.

+ Ngày 13/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 21/2012/HS-ST và Bản án số 262/2012/HS-PT ngày 23/8/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, chấp hành xong ngày 28/01/2014.

+ Ngày 14/4/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, theo Bản án số 54/2022/HS-ST và Bản án số 405/2022/HS-PT ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, chưa chấp hành án.

+ Hiện bị cáo đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định khởi tố bị can số 91/QĐ-KTBC ngày 16/5/2023).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất từ ngày 28/11/2021 đến ngày 21/12/2021 bị cáo được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”; Ngày 08/12/2022, bị cáo bị truy nã theo Quyết định truy nã số 05/QĐ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất; bị cáo tiếp tục bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/5/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất. (Có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác: Ông Nguyễn Văn Chiến, ông Nguyễn Ngọc Nghĩa, ông Nguyễn Anh Đức và ông Cao Quảng Châu là Cán bộ và Chiến sĩ nghĩa vụ Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/11/2021, tại rẫy của Trần Văn B thuộc ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất phối hợp với Công an xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất phát hiện bắt quả tang: Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Nguyễn Tiến L, Chu Sỹ T đang thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức “Xóc đĩa” thắng thua bằng tiền. Đến 20 giờ cùng ngày, Trần Duy L2 (là người cầm cái xóc đĩa) và ngày 14/01/2022 Nguyễn Ngọc P đến Công an huyện Thống Nhất đầu thú. Tang vật thu giữ, tạm giữ gồm:

Thu tại chiếu bạc: Số tiền 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng); Một điện thoại di động hiệu Apple loại Iphone 8 Plus màu đỏ; Bốn con vị; Một chiếc chăn màu đỏ kích thước 1,6m x 2m; một đĩa sành; một đĩa nhựa và một cây kéo.

Thu giữ trên người các con bạc: Số tiền 7.940.000đ (Bảy triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng); trong đó: Chu Sỹ T số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng); Nguyễn Tiến L số tiền 160.000đ (Một trăm sáu mươi nghìn đồng); Trần Vinh H1 số tiền 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng); Trần Thị Kim L số tiền 550.000đ (Năm trăm năm mươi nghìn đồng) và Bùi Thị Mỹ H số tiền 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng).

Thu giữ tại vườn thanh long gần khu vực đánh bạc: Số tiền 7.900.000đ (Bảy triệu chín trăm nghìn đồng) các con bạc để lại khi bỏ chạy.

Quá trình điều tra xác định: Vào ngày 28/11/2021, Trần Duy L2, Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Nguyễn Tiến L, Chu Sỹ T, Nguyễn Ngọc P cùng một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) rủ nhau đánh bạc trái phép dưới hình thức “Xóc đĩa” được thua bằng tiền. Các đối tượng đã sử dụng căn nhà (chòi) trong rẫy của Trần Văn B thuộc ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai để làm địa điểm đánh bạc, sử dụng một chiếc chăn màu đỏ kích thước 1,6m x 2m làm chiếu bạc. Dụng cụ chơi gồm: một chén nhựa màu trắng có hoa văn màu hồng, một đĩa sành màu trắng in hoa văn màu xanh, bốn con vị hình tròn được cắt từ bộ bài tây loại 52 lá hiệu double K.

Khi chơi, Trần Duy L2 là người cầm cái xóc đĩa, đánh bạc cá cược được thua bằng tiền với Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Nguyễn Tiến L, Chu Sỹ T, Nguyễn Ngọc P và một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Trong mỗi ván chơi, người tham gia chơi sẽ đặt cược số tiền từ 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) trở lên để cá cược với người cầm cái. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Thống Nhất phát hiện và bắt quả tang.

Cách thức đánh bạc: Người cầm cái đặt bốn con vị hình tròn lên đĩa sứ, úp chén nhựa lên và xóc, sau đó đặt xuống, người chơi đặt tiền vào hai cửa chẵn - lẻ; sau đó lật chén lên, dựa vào các mặt của con vị để làm căn cứ xác định thắng thua (ba con vị cùng mặt và một con vị khác mặt là lẻ; bốn con vị cùng mặt hoặc hai con vị mặt này hay hai con vị mặt khác là chẵn). Quá trình điều tra xác định:

- Trần Duy L2 mang theo số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) sử dụng đưa vào đánh bạc. L2 là người cầm cái, khi bị Công an phát hiện L2 lấy số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) trong túi quần vứt tại rẫy và bỏ chạy, kết quả L2 thua bạc số tiền 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng).

- Trần Vinh H1 mang theo số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) sử dụng đưa vào đánh bạc. Khi bị bắt quả tang thu giữ trên người H1 số tiền 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng), kết quả H1 thắng bạc số tiền 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng).

- Chu Sỹ T mang theo số tiền 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng) đưa vào đánh bạc. Khi bị bắt quả tang thu giữ trên người T số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng), kết quả T thua bạc số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

- Trần Thị Kim L mang theo số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) sử dụng đưa vào đánh bạc. Khi bị bắt quả tang thu giữ trên người L số tiền 550.000đ (Năm trăm năm mươi nghìn đồng), kết quả L thua bạc số tiền 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

- Bùi Thị Mỹ H mang theo số tiền 630.000đ (Sáu trăm ba mươi nghìn đồng) sử dụng đưa vào đánh bạc. Khi bị bắt quả tang thu giữ trên người H số tiền 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng), kết quả H thua bạc số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng).

- Nguyễn Tiến L mang theo số tiền 160.000đ (Một trăm sáu mươi nghìn đồng), L được một người tên Hóa đi chung với L (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đưa tiền và nhờ L đánh bạc giùm hai ván, mỗi ván 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), kết quả hòa, không thắng không thua.

- Nguyễn Ngọc P mang theo số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) sử dụng đưa vào đánh bạc. Khi bị phát hiện, P bỏ chạy thoát, kết quả thua bạc số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Như vậy, Trần Duy L2, Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Nguyễn Tiến L, Chu Sỹ T và Nguyễn Ngọc P khai nhận tổng số tiền đưa vào đánh bạc là 21.690.000đ (Hai mươi mốt triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).

Ngoài ra, vào ngày 28/11/2021 Trần Duy L2 gọi điện thoại cho Trần Văn B để mượn rẫy làm địa điểm đánh bạc thắng thua bằng tiền. Trong quá trình nói chuyện qua điện thoại, B đồng ý cho L2 mượn rẫy để đánh bạc, L2 có hứa với B “nếu có lời sẽ cho tiền” và trong quá trình làm cái xóc đĩa, L2 có nói với những người tham gia đánh bạc “nếu ai thắng chơi xong sẽ gom tiền lại cho anh B”. Tuy nhiên, L2 không nói sẽ cho B số tiền bao nhiêu và B cũng chưa nhận tiền từ L2 hay các đối tượng khác khác. Hành vi của B đã sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý của mình cho người khác đánh bạc nên có đủ căn cứ để xác định hành vi nói trên của B là đồng phạm về tội “Đánh bạc”.

Đối với Trần Duy L2, Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Chu Sỹ T, Nguyễn Ngọc P và Trần Văn B đã bị xét xử theo Bản án số 53/2023/ST-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Đối với bị cáo Nguyễn Tiến L trong thời gian tại ngoại điều tra được áp dụng biện pháp “Bảo lĩnh” nhưng L đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã ra quyết định truy nã đối với bị cáo theo Quyết định số 05/QĐ ngày 08/12/2022 đồng thời tách hành vi và tài liệu liên quan theo Quyết định số 09/QĐ ngày 18/11/2022 để xử lý sau. Ngày 04/5/2023, Công an huyện Thống Nhất đã bắt truy nã đối với Nguyễn Tiến L.

Tại Cáo trạng số 83/CT.VKS.TN ngày 12 tháng 7 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố Nguyễn Tiến L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

* Về vật chứng vụ án: Đã được xử lý theo Bản án số 53/2023/ST-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã mô tả, không tham gia tranh luận chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản bắt người đang bị truy nã và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Với mục đích thu lợi bất chính, vào ngày 28/11/2021 tại rẫy của Trần Văn B thuộc ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Tiến L cùng Trần Duy L2, Bùi Thị Mỹ H, Trần Thị Kim L, Trần Vinh H1, Chu Sỹ T, Nguyễn Ngọc P và một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đã có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức “Xóc đĩa” được thua bằng tiền. Số tiền các đối tượng đã đưa vào đánh bạc là 21.690.000đ (Hai mươi mốt triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng). Đối với Nguyễn Tiến L mang theo số tiền 160.000đ (Một trăm sáu mươi nghìn đồng). Ngoài ra, L được một người tên H3 đi chung với L (không xác định được nhân thân, lai lịch) đưa tiền và nhờ L đánh bạc giùm hai ván, mỗi ván 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), kết quả hòa, không thắng không thua. Như vậy, hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” với tình tiết định khung quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự:“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền ... trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ..., thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Do đó, Cáo trạng số 83/CT.VKS.TN ngày 12 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là đúng người, đúng tội và không oan sai cho bị cáo.

3 Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Đánh bạc là tệ nạn xã hội, là hình thức tước đoạt tài sản của nhau, vì vậy Nhà nước nghiêm cấm đánh bạc trái phép. Tuy nhiên, vì hám lợi bị cáo đã cùng các đối tượng khác đánh bạc nhằm thu lợi ích vật chất mà không phải lao động chân chính. Hành vi của bị cáo làm ảnh hưởng không tốt đến nếp sống văn minh, cũng như tác động xấu đến đời sống gia đình, cộng đồng. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

4 Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu vì đã từng bị kết án về các tội “Đánh bạc”, “Trộm cắp tài sản”, mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, trong quá trình được tại ngoại điều tra bị cáo liên tục thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 405/2022/HS-PT ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và hiện bị cáo đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2020, bị cáo đã bị kết án 08 (Tám) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chưa được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên hành vi của bị cáo là “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

5 Về quyết định hình phạt: Bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, tự giác cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống lương thiện, có ích cho xã hội và biết tuân thủ pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền…”. Tuy nhiên, do bị cáo không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

7 Về các biện pháp tư pháp: Đã được xử lý theo Bản án số 53/2023/ST-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên không đặt ra xem xét.

[8 Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

9 Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

10 Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố và hình phạt là có căn cứ và phù hợp với các tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 và Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến L (tên gọi khác: U) phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt của tội đang bị xét xử với hình phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự số 405/2022/HS-PT ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 04 (Bốn) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2023, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 19/5/2021 đến ngày 28/5/2021 và từ ngày 28/11/2021 đến ngày 21/12/2021.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 101/2023/HS-ST

Số hiệu:101/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về