Bản án về tội đánh bạc số 100/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 100/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 122/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021, Thông báo về việc dời lại thời gian mở phiên tòa số 590/2021/TB-TA ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Kh – sinh năm: 1993, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Nguyễn Hoàng Kh1 – 1963 và bà Trần Thị S – 1973; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 31/3/2021 đến ngày 09/4/2021. Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2021 đến ngày 09/6/2021. Hiện đang tại ngoại. (có mặt)

2. Lê Chí Th – sinh năm: 1995, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 1, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Lê Viết S1 – 1962 và bà Nguyễn Thị S2 – 1975; Vợ: Nguyễn Thị Thu Th1 – 1998; Có 01 con sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 31/3/2021 đến ngày 09/4/2021. Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2021 đến ngày 09/6/2021. Hiện đang tại ngoại. (có mặt)

3. Nguyễn Anh K – sinh năm: 1994, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Nguyễn Đăng T – 1959 và bà Bùi Thị T1 – 1960; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 31/3/2021 đến ngày 09/4/2021. Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2021 đến ngày 09/6/2021. Hiện đang tại ngoại. (có mặt)

4. Hồ Sỹ L – sinh năm: 1995, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật; Con ông Hồ Sỹ Đ – 1969 và bà Lê Thị L1 – 1972; Vợ: Nguyễn Thị Yến Nh – 1998; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 31/3/2021 đến ngày 09/4/2021. Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2021 đến ngày 09/6/2021. Hiện đang tại ngoại. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 31/3/2021, Nguyễn Kh, Hồ Sỹ L và Lê Chí Th đến nhà Nguyễn Anh K ngụ tại ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai nhậu. Sau khi nhậu xong, K, Kh, L và Th rủ nhau đánh bạc thắng thua bằng tiền, dưới hình thức đánh bài “Cào liêng” thì tất cả đồng ý. Các bị cáo đánh bạc đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Định Quán kết hợp với Công an xã GC bắt quả tang.

Tang vật thu giữ:

- 02 bộ bài tây đã qua sử dụng;

- Thu trên chiếu bạc số tiền 3.000.000 đồng.

- Thu trên người các bị cáo số tiền 19.850.000 đồng, 04 điện thoại di động. Trong đó:

+ Thu của Nguyễn Kh: Số tiền 8.500.000 đồng.

+ Thu của Hồ Sỹ L: Số tiền 900.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone.

+ Thu của Lê Chí Th: Số tiền 9.350.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 điện thoại di động hiệu Iphone.

+ Thu của Nguyễn Anh K: Số tiền 1.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Oppo.

Hình thức đánh bạc như sau: Các bị cáo sử dụng một bộ bài tây gồm 52 lá bài và chia cho mỗi người tham gia chơi 01 con bài để so sánh xem người nào có con bài lớn nhất thì được quyền chia bài và được quyền tố tiền trước. Khi xác định được người chia bài thì mỗi người tham gia chơi phải bỏ ra số tiền là 50.000 đồng đặt giữa chiếu bạc (gọi là tiền đường). Người chia bài chia cho mỗi người theo thứ tự từng lá bài cho đến khi những người chơi có đủ mỗi người 03 lá bài thì những người tham gia chơi lấy bài lên xem số điểm của bài mình nhưng không cho người khác xem. Lúc này, người chia bài nếu tố thì bỏ tiền ra tố và đặt cùng với tiền đường; còn không tố thì úp bài và chịu thua số tiền đường đã bỏ ra để người kế bên (tính theo vòng chia bài) tố nhưng phải bằng với số tiền tố của người trước hoặc có thể tố hơn số tiền này hoặc úp bài chịu thua. Cứ như thế cho đến khi không người nào tố thêm nữa thì những người tố còn lại cầm bài mở bài ra để so sánh bài người nào lớn, bài người nào nhỏ. Nếu bài người nào lớn nhất thì được thắng toàn bộ số tiền của những người chơi đã đặt ra giữa chiếu bạc, người thắng sẽ chia bài và được quyền tố trước của ván thứ 2. Quá trình đánh bạc quy định tiền tố nhỏ nhất là 50.000 đồng, tiền tố lớn nhất là 300.000 đồng, không giới hạn số lần tố. Quy định bài lớn nhỏ như sau: Tính tổng số điểm trên 03 con bài được chia, nhỏ nhất là không điểm (gọi là bù) rồi đến 1,2,3,4... cho đến 9 điểm, lớn hơn 9 điểm là người có bài ba cào (tức là 03 con bài đều là con tây gồm các con bài I, Q, K); lớn hơn ba cào là bài có 03 con bài liền kề nhau gọi là “Liêng” theo thứ tự: 3,4,5; 4,5,6;…; 9, 10, J (gọi là chín, mười, bồi); 10, J, Q (gọi là mười, bồi, đầm); J, Q, K (gọi là bồi, đầm, già); Q, K, A (gọi là đầm, già, xì); lớn hơn bài “Liêng” là người có 03 con bài giống như nhau gọi là “Sáp”.

Số tiền đánh bạc của các bị cáo được làm rõ như sau:

Nguyễn Kh mang theo số tiền 10.950.000 đồng. Trong quá trình điều tra, Kh khai sử dụng số tiền 5.950.000 đồng để đánh bạc. Tại phiên tòa, bị cáo Kh thừa nhận cất giữ toàn bộ số tiền trên ở một vị trí và khi bắt quả tang thu giữ số tiền 8.500.000 đồng ở một vị trí trong một túi quần của Kh, không có sự phân chia số tiền trên. Do đó, xác định Nguyễn Kh sử dụng 10.950.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Kh thắng được số tiền 550.000 đồng.

Lê Chí Th mang theo số tiền 9.000.000 đồng và sử dụng số tiền 4.000.000 đồng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Th thắng được số tiền 350.000 đồng.

K mang theo số tiền 1.500.000 đồng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, K thua số tiền 400.000 đồng.

L mang theo số tiền 1.400.000 đồng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, L thua số tiền 500.000 đồng.

Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 17.850.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 103/CT-VKSĐQ ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đề xuất mức án đối với các bị cáo:

Nguyễn Kh từ 10 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Lê Chí Th từ 10 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Nguyễn Anh K từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Hồ Sỹ L từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị:

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 12.850.000 đồng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây (đã qua sử dụng).

+ Đối với 04 điện thoại di động các loại và số tiền 10.000.000 đồng đã thu giữ. Quá trình điều tra đã xác định các tài sản trên không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Các bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Các bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Định Quán, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 31/3/2021, tại nhà của Nguyễn Anh K, ở ấp 7, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện Định Quán kết hợp với Công an xã GC đã bắt quả tang Nguyễn Anh K, Nguyễn Kh, Hồ Sỹ L và Lê Chí Th đang có hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền, dưới hình thức đánh bài “Cào liêng”, với số tiền dùng để đánh bạc là 17.850.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Các bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó các bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, tệ nạn cờ bạc diễn ra ngày càng phức tạp, là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các nhóm tội phạm khác. Vì vậy để giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải xét xử và áp dụng cho các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4]. Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia với vai trò là người thực hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ mức độ tham gia, số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc để cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, xem xét các bị cáo Th, L đang nuôi con chưa thành niên; các bị cáo là lao động chính trong gia đình, có trình độ nhận thức pháp luật còn thấp là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[8]. Về hình phạt chính:

Xét tính chất và mức độ tham gia phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như việc các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào Điều 65 Bộ luật hình sự và Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng chế định án treo, không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Cá thể mức hình phạt với các bị cáo như sau: Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì hình phạt áp dụng đối với bị cáo Kh là cao nhất, hình phạt đối với bị cáo Th thấp hơn bị cáo Kh và cao hơn các bị cáo còn lại; hình phạt đối với các bị cáo K và L là bằng nhau và thấp nhất.

[9]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[10]. Về xử lý vật chứng:

+ Đối với số tiền 12.850.000 đồng thu giữ khi bắt quả tang. Xét thấy số tiền trên liên quan đến việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 02 bộ bài tây (đã qua sử dụng). Xét thấy các vật chứng trên liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Căn cứ vào quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 04 điện thoại di động các loại thu giữ của các bị cáo Th, K, L và số tiền 5.000.000đ thu giữ của bị cáo Th. Qua điều tra xác định các bị cáo không sử dụng các tài sản trên vào mục đích đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho chủ sở hữu là phù hợp.

+ Đối với số tiền 5.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Kh: Cơ quan điều tra xác định số tiền trên không sử dụng vào việc đánh bạc nên đã trao trả lại cho chủ sở hữu. Tại phiên tòa, xác định được bị cáo Kh sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc nên căn cứ vào quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự buộc bị cáo Kh phải nộp lại sung ngân sách Nhà nước.

[11]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[12]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quan điểm giải quyết vụ án phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 2 và Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Kh 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Lê Chí Th 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 (tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Anh K 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Hồ Sỹ L 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L cho Ủy ban nhân dân xã GC, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự, Thông tư số 64/2019/TT-BCA ngày 28/11/2019 của Bộ công an.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Xử phạt bổ sung các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L, mỗi bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.850.000 đồng (Mười hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). (Theo biên lai thu số 0000504 ngày 18/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai).

Tịch thu, tiêu hủy 02 bộ bài tây (đã qua sử dụng). (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/10/2021).

Buộc bị cáo Nguyễn Kh nộp sung ngân sách Nhà nước số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Kh, Lê Chí Th, Nguyễn Anh K, Hồ Sỹ L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 100/2021/HS-ST

Số hiệu:100/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về