Bản án về tội đánh bạc số 100/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 100/2021/HS-ST NGÀY 19/10/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 19 tháng 10 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2021/HSST-QĐ ngày 28/9/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2021/HSST-QĐ ngày 13/9/2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị Thu T. Tên gọi khác: Không có, sinh năm 1983; nơi sinh và nơi cư trú: Tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiêp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị N; có chồng Nguyễn Văn T, sinh năm 1983; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự : Không.

Nhân thân: Tại bản án số 61/2016/HSST ngày 22/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang, xử phạt T 05 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án, về tội Đánh bạc. Phạt bổ sung 4.000.000 đồng sung quỹ nhà nước. Bị cáo đã chấp hành xong án phí, tiền phạt ngày 11/11/2016.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 23/9/2020 đến ngày 29/9/2020.

Hiện tại ngoại, có mặt.

2. Giáp Văn H. Tên gọi khác: Không có; Sinh năm 1986; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Ngọc Sơn, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiêp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Giáp Văn T và bà Lê Thị T; có vợ: Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1987; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự : Không; bị cáo bị đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 29/9/2020 đến ngày 02/10/2020; hiện tại ngoại, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Văn H, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn P 1, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Nguyễn Duy Giang, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

3. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã M, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

4. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

5. Anh An Mạnh K, sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

6. Anh Từ Văn H, sinh năm 1996 (vắng mặt) 7. Nguyễn Văn T, sinh năm 1997 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 23/9/2020, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang Lê Thị Thu T, sinh năm 1983, trú tại Tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi lô, đề trái phép tại khu vực trước cửa nhà số 41, phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang cho hai đối tượng là Trần Văn H, sinh năm 1981, trú tại thôn P 1, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang và Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1976, trú tại thôn Tân Cầu, xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Tang vật thu giữ gồm:

- 01 tờ cáp đề nhỏ có ghi các số tự nhiên ở mặt trước vé xổ số kiến thiết Bắc Giang lô tô 2, 3, 4 số, loại vé 10.000 đồng, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Văn Sơn, thu giữ tại túi áo khoác bò của Sơn;

- 01 tờ cáp đề nhỏ có ghi các số tự nhiên ở mặt trước vé xổ số kiến thiết Bắc Giang lô tô 2, 3, 4 số, loại vé 10.000 đồng, mặt sau có chữ ký của Trần Văn H, thu giữ tại tay phải của H;

- 03 tờ bảng kê dự thưởng xổ số lô tô, bên trong có ghi nhiều dãy số tự nhiên, có chữ ký của Lê Thị Thu T ở từng tờ, thu giữ tại bàn uống nước nơi T bán số lô, số đề;

- 10 nửa tờ xổ số kiến thiết Bắc Giang lô tô 2, 3, 4 số, loại vé 10.000 đồng, có chữ ký xác nhận của T ở từng tờ;

- 03 tờ bảng kê dự thưởng xổ số, lô tô có chữ ký xác nhận của T ở từng tờ;

- 04 tờ kết quả xổ số từ ngày 19 đến ngày 22/9/2020 có chữ ký xác nhận của T ở từng tờ;

- 02 điện thoại di động Samsung, 01 điện thoại Nokia màu đen thu giữ tại mặt bàn uống nước nơi T ghi số lô, số đề (được cho vào phong bì niêm phong) - Số tiền 25.800.000 đồng thu giữ trong túi xách trên bàn uống nước nơi T ghi số lô, số đề (Được cho vào phong bì niêm phong) - 01 bút bi mực màu xanh, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead (xe không có biển kiểm soát) Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Thị Thu T tại Tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Ngày 24/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 226/QĐ-CSHS trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định chữ kí, chữ viết đối với những tờ cáp nhỏ, cáp tổng thu giữ trong quá trình bắt quả tang. Tại Bản kết luận giám định số 1373/KL-KTHS ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A5 (trừ chữ viết có nội dung “ngày 23.9.2020 Trần Văn H”, “Đầy tơ cáp đên toi mua ngày 23.93.20- Sơn- Nguyễn Văn Sơn” tại mặt sau các tài liệu A1, A2) so với chữ viết của Lê Thị Thu T trên các tài liệu mẫu kí hiệu từ M1, M2, M3 là do cùng một người viết ra”.

Quá trình điều tra xác định:

Lê Thị Thu T là đại lý bán vé xổ số kiến thiết cho chi nhánh xổ số kiến thiết huyện L thuộc Công ty TNHH một thành viên xổ số kiến thiết Bắc Giang. T thuê nhà số 41 phố X, TT Đồi Ngô, huyện L, tỉnh Bắc Giang để bán hàng nước và bán vé số cho Công ty. Để có thêm thu nhập, ngoài bán hàng nước và vé số, T có ghi thêm số lô, đề cho khách chơi là những người đi đường và một số khách quen nhắn tin thông qua điện thoại di động dưới các dạng như sau:

- Dạng đề: Là đánh hai số cuối của giải đặc biệt, người chơi đề mua các con số từ 00 đến 99, nếu khi có kết quả xổ số Miền Bắc mà trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt sẽ được số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra mua trước đó, còn không trúng thì người chơi bị mất số tiền đã bỏ ra mua số đề.

- Dạng đề ba càng: Người chơi đề chọn cặp ba số cuối của giải đặc biệt hoặc giải nhất to đánh các số từ 000 đến 999 với một lượng tiền tùy theo người chơi, đối chiếu với ba số cuối của giải đặc biệt và giải nhất của kết quả xổ số kiến thiết Miền bắc mở thưởng trong ngày, nếu trùng với số đề người chơi đã đánh thì trúng thưởng gấp 400 lần số tiền đã bỏ ra chơi đề, nếu không trúng thưởng thì bị mất số tiền đó.

- Dạng “Lô”: Là đánh theo 02 số cuối của tất cả các giải xổ số, người chơi mua các ô số từ 00 đến 99 với số điểm tùy theo, một điểm lô là 22.500 đồng, nếu trùng với 02 số cuối của tất cả các giải thì được mỗi điểm lô là 80.000 đồng. Nếu trùng 02 số cuối của nhiều giải thì được hưởng tương ứng với số lần trúng đó, còn nếu không trúng thì mất số tiền đó.

- Dạng lô xiên 2: Người chơi mua 2 số lô, mỗi số có 2 chữ số từ 00 đến 99. Nếu cả 2 số mà người chơi mua trùng với 2 chữ số cuối cùng của một trong 27 giải thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày thì người chơi đó thắng và được nhận gấp 10 lần số tiền đặt cược.

- Dạng lô xiên 3: Người chơi mua 3 số lô, mỗi số có 2 chữ số từ 00 đến 99. Nếu cả 3 số mà người chơi mua trùng với 2 chữ số cuối cùng của một trong 27 giải thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng cùng ngày thì người chơi đó thắng và được nhận gấp 40 lần số tiền đặt cược.

Khoảng 17h20 ngày 23/9/2020, Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1976, trú tại thôn Tân Cầu, xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang; Trần Văn H, sinh năm 1981, trú tại thôn P, xã T, huyện L cùng đến quán của T uống nước. Sơn đặt vấn đề hỏi mua số lô, số đề với T thì được T đồng ý bán, Sơn mua các số đề ở cửa đặc biệt đầu 7 mỗi số 15.000 đồng, đuôi 7 mỗi số 15.000 đồng; các số lô 69, 96 mỗi số 10 điểm (mỗi điểm tương ứng với 22.500 đồng), số lô 77 là 15 điểm. Tổng số tiền Sơn mua số lô, số đề hết 1.250.000 đồng. T ghi các số lô, số đề cho Sơn vào tờ cáp đề là cuống của tờ vé xổ số kiến thiết Bắc Giang, loại vé lô tô 2, 3, 4 mệnh giá 10.000 đồng, sau đó đưa cho Sơn và nhận số tiền 1.250.000 đồng từ Sơn. T có chép lại các số lô, đề này vào tờ Bảng kê dự thưởng xổ số lô tô để tổng hợp, theo dõi. Sau đó, Trần Văn H cũng hỏi mua số lô, đề với T. H mua các số đề ở cửa đặc biệt: số 74 là 110.000 đồng, các số 14, 41 mỗi số 55.000 đồng, các số lô 01, 04, 40, 99 mỗi số 10 điểm (mỗi điểm tương ứng với 22.500 đồng), các cặp lô xiên 3 là cặp 01, 04, 99 và cặp 01, 40, 99 mỗi cặp 50.000 đồng. Tổng số tiền H mua lô, đề hết 1.200.000 đồng. T cũng ghi các số lô, số đề cho H vào tờ cáp đề là cuống của tờ vé xổ số kiến thiết Bắc Giang loại vé lô tô 2, 3, 4 mệnh giá 10.000 đồng (ghi 2 mặt), sau đó đưa cho H và nhận số tiền 1.200.000 đồng từ H. T có chép lại các số lô, số đề này vào tờ bảng kê dự thưởng xổ số lô tô để tổng hợp và theo dõi, khi T vừa chép xong các số lô, số đề vào tờ cáp tổng thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang bắt quả tang. Tổng số tiền T đã bán số lô, số đề trái phép cho Nguyễn Văn Sơn và Trần Văn H là 2.450.000 đồng.

Quá trình bắt người phạm tội quả tang, tổ công tác phát hiện một đối tượng có biểu hiện nghi vấn mua số lô, số đề của T trước đó, cách vị trí bắt quả tang khoảng 200m nên đã tiến hành kiểm soát ngăn chặn đối với: Nguyễn Duy Giang, sinh năm 1981, trú tại Đ, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang, thu giữ của Giang số tiền 2.000.000 đồng (Tổ công tác tiến hành niêm phong số tiền này theo quy định) và 01 xe mô tô biển kiểm soát 98F1-021.51 nhãn hiệu Wave RS màu đỏ (BL 208- 210). Kết quả điều tra xác định: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 23/9/2020, Giang đến chỗ T bán nước và xổ số để đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề của T. T đồng ý bán cho Giang số lô 66 = 50 điểm, số lô 84, 48 mỗi số 10 điểm, số lô 11 = 20 điểm, số lô 67 = 10 điểm, số lô 99 = 20 điểm, số đề giải đặc biệt 99, 11 (mỗi số 100.000 đồng), 16, 61 (mỗi số 50.000 đồng), 55 = 110.000 đồng, số đề giải nhất 99, 11, 16 (mỗi số 30.000 đồng). T ghi các số lô, số đề này vào tờ cáp đề là cuống của tờ vé xổ số kiến thiết Bắc Giang, sau đó chép lại các con số này vào tờ bảng kê dự thưởng xổ số lô tô để tổng hợp và chụp lại mặt sau tờ cáp đề vào điện thoại rồi đưa lại cáp đề cho Giang giữ. Tờ cáp đề này Giang khai đã rơi ở đâu không rõ. Tổng số tiền Giang mua số lô, số đề của T là 3.200.000 đồng.

Ngoài các số lô, số đề T bán trái phép cho Sơn, H, Giang, ngày 23/9/2020 T còn bán số lô, số đề trái phép cho nhiều đối tượng khác, một số người đến gặp trực tiếp T để mua bán số lô, số đề T không nhớ cụ thể là ai, một số người nhắn tin cho T qua Zalo, Messenger, tin nhắn SMS. Qua kiểm tra điện thoại của T phát hiện như sau:

Hồi 16 giờ 01 phút ngày 23/9/2020, T nhận được tin nhắn đến từ tài khoản Messenger của ứng dụng Facebook mang tên gồm các ký tự không phải chữ Latin nội dung “Thuy oi ghi a lo 69=200đ; 96=200đ; 75=209đ; 57=200đ”. T khai người có tài khoản Messenger này là anh Phạm Ngọc Thiện, sinh năm 1984, trú tại thôn Ngọc Mai, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang, anh Thiện nhắn tin mua số lô, số đề với T còn khi thanh toán thì anh Thiện nhờ anh Phan Huy Thông, sinh năm 1984, trú tại thôn Ngọc Mai, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang giao, nhận tiền với T. T đồng ý bán cho Thiện các số lô “69”, “96”, “57” mỗi số 200 điểm, số “75” = 209 điểm, tương đương tổng số tiền là 18.202.500 đồng.

Hồi 16 giờ 22 phút ngày 23/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “Huan” nội dung “Lo 94, 96 x10 đ/1 số. Db đầu 7x10n/1 số, 73-50n;

74-200n, 47-50n. 79-200n, 97-100n. 3 càng 479-20n, 474-20n, 297-20n”. T khai đây là tin nhắn của anh Nguyễn Văn Huấn, sinh năm 1990, trú tại tổ dân phố Vân Động, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Huấn các số lô, số đề gồm: số lô 94, 96, mỗi số 10 điểm, số đề đặc biệt đầu 7, mỗi số 10.000 đồng, số đề đặc biệt 74 = 200.000 đồng, 47=50.000 đồng, 79 = 200.000 đồng, 97 = 100.000 đồng, 73 = 50.000 đồng, 3 càng 479 = 20.000 đồng, 474= 20.000 đồng, 297 = 20.000 đồng. Tổng số tiền Huấn mua số lô, đề là 1.210.000 đồng.

Hồi 16 giờ 48 phút ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận tin nhắn đến từ số điện thoại 0973829557 nội dung là “Đb 68-110n; 768-60n, 368-50n; lô 68 33 mỗi con 30đ xiên 33 68 200n”. Theo T khai đây là tin nhắn của anh Phan Văn Việt, sinh năm 1972, trú tại thôn Ngọc Mai, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Việt các số đề 68 ở giải Đặc biệt = 110.000 đồng, ba càng “768” = 60.000 đồng, “368”=50.000 đồng, số lô 68, 33 mỗi số 30 điểm, lô xiên 33-68 = 200.000 đồng. Tổng số tiền Việt mua số lô, số đề của T là 1.770.000 đồng.

Hồi 17 giờ 01 ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận được tin nhắn mua số lô, số đề từ số thuê bao 0983593848 của Giáp Văn H, sinh năm 1986, trú tại thôn Ngọc Sơn, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. H nhắn mua số lô “22”, “68” mỗi số 80 điểm; các số lô “33”, “79” mỗi số 20 điểm; các số đề giải đặc biệt “22”, “68”, “77”, “89”, “98”, “36” mỗi số với số tiền là 55.000 đồng; cặp số lô xiên 3 “22- 68- 89” với số tiền là 200.000 đồng. T nhắn tin nhắn trả lời “ok”, tức là đồng ý bán các số lô, số đề trên cho H. Tổng số tiền mua số lô, số đề ngày 23/9/2020, H phải trả là 5.030.000 đồng. Trước đó, H cũng nhắn tin cho T để hỏi mua các số lô, số đề nhưng T và H đều không nhớ H đã mua những số lô, số đề nào, bao nhiêu tiền. Đến 07 giờ 43 phút tối ngày 22/9/2020, T nhắn tin cho H với nội dung “Ed 3350”, tức là số tiền H trúng thưởng sau khi trừ tiền đánh lô, đề của những ngày trước đó. Ngày 29/9/2020, nhận thức hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô, số đề của T là sai, vi phạm pháp luật, Giáp Văn H đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đầu thú và giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen và 01 chứng minh nhân dân mang tên Giáp Văn H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành kiểm tra điện thoại thu giữ của H, kết quả kiểm tra không phát hiện nội dung gì nghi vấn. Toàn bộ số tiền H đánh bạc ngày 23/9/2020 và những ngày trước đó H chưa thanh toán với T.

Hồi 17 giờ 02 phút ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận tin nhắn đến từ số điện thoại 0904050062 nội dung “L: 04-40-86=20đ”. T khai đây là tin nhắn của anh Dương Văn Bắc, sinh năm 1983, trú tại tổ dân phố Bình Minh, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Bắc số lô “04”, “40”, “86”, mỗi số 20 điểm. Tổng số tiền Bắc mua số lô của T là 1.350.000 đồng.

Hồi 17 giờ 03 phút ngày 23/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “Anh hao quang” nội dung “Lo 67, 79 x 30 đ nhé e, Lo12x50đ nhé”.T khai không biết tên tuổi, địa chỉ của người có tài khoản zalo mang tên “Anh hao quang” nêu trên, chỉ biết là nam giới, lái xe taxi đỗ trước quán của T, khi mua số lô, số đề thì nhắn qua ứng dụng Zalo còn khi thanh toán thì người này trực tiếp trả cho T ở quán nước trước cửa số nhà 41, phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho người này các số lô “67”, “79” mỗi số 30 điểm, số lô “12” = 50 điểm. Tổng số tiền người này mua số lô của T là 1.800.000 đồng.

Hồi 17 giờ 05 phút ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận tin nhắn đến từ số điện thoại 0982587009 nội dung là “2 cưa 76, 77, 78, 25 nghìn x2”, theo T khai đây là tin nhắn của anh Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1975, trú tại tổ dân phố Bình Minh, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, T đồng ý bán cho anh Vượng các số đề 76, 77, 78 ở 2 cửa, mỗi số 25.000 đồng, tổng số tiền anh Vượng mua số lô, số đề của T là 150.000 đồng.

Hồi 17 giờ 19 phút ngày 23/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “Tá e” nội dung “a x3 68 94 83 68 94 89 = m con 100n mai a đưa cho nha”. T khai đây là tin nhắn của anh Phan Văn Tá, sinh năm 1982, trú tại tổ dân phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Tá số lô xiên 3 “68, 94, 83” = 100.000 đồng, “68, 94, 89” = 100.000 đồng. Tổng số tiền anh Tá đánh lô là 200.000 đồng.

Hồi 17 giờ 31 phút ngày 23/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “anh Thanh” nội dung “Em cho anh 58, 85, 88, 93, 72, 86, 68, 55 mỗi con 10k. Đề và nhất to mỗi con 20k”. T khai đây là tin nhắn của anh Dương Văn Thanh, sinh năm 1981, trú tại thôn Trại 2, xã Yên Sơn, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Thanh các số lô 58, 85, 88, 93, 72, 86, 68, 55, mỗi số 10 điểm, đề thông cửa các số 58, 85, 88, 93, 72, 86, 68, 55, mỗi số 20.000 đồng. Tổng số tiền Thanh đánh lô, đề là 2.120.000 đồng.

Vào lúc 17 giờ 36 ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận được tin nhắn qua ứng dụng Zalo từ tài khoản “Văn T” của anh Phạm Văn T, sinh năm 1981, trú tại thôn Đ, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Anh T mua các số lô “58”, “85”, “68”, “86”, “41” mỗi số 10 điểm tương ứng với số tiền 1.125.000 đồng. T đồng ý bán các số lô nêu trên cho anh T. Anh T chưa thanh toán số tiền 1.125.000 đồng cho T.

Vào lúc 17 giờ 36 ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận được tin nhắn mua số lô, số đề từ số thuê bao 0985343555 của An Mạnh K, sinh năm 1994, trú tại tổ dân phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. K nhắn mua số lô “59”, “66” mỗi số 30 điểm; các số đề “03”, “58”, “94” mỗi số 50.000 đồng; số đề ba càng giải đặc biệt “658”, “694” mỗi số với số tiền là 100.000 đồng; số đề ba càng thông cửa (giải đặc biệt và giải nhất) “603” với số tiền 50.000 đồng/1 con, tương ứng số tiền phải trả là 100.000 đồng; số đề giải nhất “03” với 50.000 đồng. Tổng số tiền mua số lô, số đề K phải trả là 1.850.000 đồng. T đồng ý bán số lô, số đề nêu trên cho K. K chưa thanh toán số tiền 1.850.000 đồng cho T.

Vào lúc 17 giờ 47 ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận được tin nhắn qua ứng dụng Zalo từ tài khoản “chau hoi” của anh Từ Văn H, sinh năm 1996, trú tại tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Anh H nhắn tin mua số đề giải đặc biệt số “71”, “67” mỗi số 50.000 đồng, tổng số tiền mua số đề giải đặc biệt là 100.000 đồng. T đồng ý bán số đề nêu trên cho anh H. Anh H chưa thanh toán số tiền 100.000 đồng cho T.

Hồi 17 giờ 47 phút ngày 23/9/2020, Lê Thị Thu T nhận tin nhắn đến từ số điện thoại 0982445388 nội dung “chị ghi e 71.78x10đ, xiên 37.73, 100k. Mai em gưi 550k”. T khai đây là tin nhắn của anh Hoàng Viết Thu, sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố Vân Động, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Thu số lô 71, 78, mỗi số 10 điểm, lô xiên 37-73 = 100.000 đồng. Tổng số tiền Thu mua số lô của T là 550.000 đồng.

Hồi 17 giờ 41 ngày 23/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “Hiếu” nội dung “10-16 mỗi con 20đ”. T khai người có tài khoản zalo này tên là Hiếu, nhà ở thôn Gai, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang, còn tên tuổi cụ thể T không biết rõ, T không có số điện thoại để liên lạc và không nhớ rõ đặc điểm của Hiếu. T đồng ý bán cho Hiếu số lô 10, 16 mỗi số 20 điểm, tổng số tiền Hiếu phải trả là 900.000 đồng.

Toàn bộ số lô, số đề T bán trái phép cho khách ngày 23/9/2020 T đều chép lại vào 02 tờ bảng kê dự thưởng xổ số lô tô, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã thu giữ trong quá trình bắt quả tang. Tổng số tiền T đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề trái phép cho khách ngày 23/9/2020 xác định là: 58.317.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định, những ngày trước đó, T còn có hành vi bán số lô, đề trái phép cho khách, cụ thể như sau:

Hồi 17 giờ 55 phút ngày 10/6/2020, T nhận tin nhắn đến từ số điện thoại 0348238386 nội dung “Cho chau ka đề 66 68 150k. 3 kang thong kua 866 368 50k. 12 chau tra hi”. T khai người nhắn tin từ số điện thoại 0348238382 để mua số đề này là anh Bùi Văn Liêm, sinh năm 1998, trú tại tổ dân phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Liêm các số đề 66, 68 mỗi số 150.000 đồng, đề ba càng (đặc biệt và nhất to): “866”, “368” mỗi số 50.000 đồng/1 cửa. Tổng số tiền Liêm mua số đề của T là 500.000 đồng.

Hồi 16 giờ 02 phút ngày 05/8/2020, T nhận được tin nhắn đến từ số điện thoại 0965547230 nội dung “Em quyen bich day chi”, “Chi ghi vao cho em ,3 con lo moi con 5, diem, ko duoc mai cam cam tien suong cho , (lo , 86 + 99 + 63 x 5,diem 1 con”, “duoc thi ok cho em”. T khai đây là tin nhắn của anh Nguyễn Văn Quyên, sinh năm 1974, trú tại thôn Trại Chấu, xã Bảo Đài, huyện L, tỉnh Bắc Giang. T đồng ý bán cho anh Quyên các số lô “86”, “99”, “63”, mỗi số 5 điểm. Tổng số tiền anh Quyên mua số lô của T là 340.000 đồng.

Hồi 15 giờ 11 phút ngày 13/8/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Messenger của ứng dụng Facebook mang tên “Hong Truong” nội dung “Ah 75 76 77 84 89 mỗi con 10n 85 50n”. T khai đây là tin nhắn của anh Trương Văn Hồng, sinh năm 1973, trú tại thôn Bãi Dài, xã H Sơn, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tổng số tiền anh Hồng mua số lô, số đề của T là 100.000 đồng.

Ngày 30/8/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Messenger của ứng dụng Facebook mang tên “T Dragon” nội dung “78 500d”. T khai nhận: Người có tài khoản Messenger này là anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1997, trú tại tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Ngày 30/8/2020, anh T nhắn tin từ tài khoản Messenger nêu trên, ban đầu hỏi mua của T số lô “78” 500 điểm nhưng sau đó lại gọi điện lại thông báo không mua nữa và số tiền 10.900.000 đồng là trả nợ khoản vay làm ăn trước đó.

Ngày 21/9/2020, Lê Thị Thu T đang ở quán bán hàng nước ở trước cửa số nhà 41, phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang thì anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1990, trú tại thôn C, xã M, huyện L, tỉnh Bắc Giang đến hỏi mua số lô “17” với 5 điểm tương ứng số tiền là 112.500 đồng. T đồng ý bán số lô đó cho anh L và đã nhận của anh L số tiền 112.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc ngày 21/9/2020, anh L trúng số lô “17” đã mua. Đến 19 giờ 50 ngày 22/9/2020, tại nhà của T ở tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, T đã trả tiền trúng lô với số tiền 400.000 đồng.

Ngày 22/9/2020, T nhận tin nhắn đến từ tài khoản Zalo mang tên “Nguyễn Đoàn Tân” nội dung “Lô 48 hai mươi điểm em nhé, xiên 12 21 37 năm chục”. T khai người có tài khoản zalo này tên là Tân, nhà ở thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang làm nghề giao giò chả đến chợ X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, còn tên tuổi, địa chỉ cụ thể T không biết rõ, T không có số điện thoại để liên lạc và không nhớ rõ đặc điểm của Tân. T đồng ý bán cho anh Tân các số lô với tổng số tiền 500.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 29/4/2021 của VKSND huyện L, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo: Lê Thị Thu T về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật hình sự; Giáp Văn H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đều khai có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua, bán số lô, số đề như Cáo trạng truy tố là hoàn toàn đúng.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện L giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung bản Cáo trạng. Rút quyết định truy tố đối với Lê Thị Thu T về hành vi bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn T ngày 30/8/2020 và rút tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS đối với bị cáo T.

Đề nghị H đồng xét xử: Căn cứ khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 58 và Điều 65 của BLHS. Xử phạt: Lê Thị Thu T 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 5 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo từ 20 – 30 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 58 và Điều 65 của BLHS. Xử phạt: Giáp Văn H từ 06 - 09 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 12 - 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 – 20 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu đen, có số IMEI1: 353415082401582/01; 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, có số Seri: 356048036696473; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, có số IMEI: 355401102085173/01; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu hồng có số IMEI: 353293071080810.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi mực màu xanh.

- Quá trình điều tra thu giữ số tiền 25.800.000 đồng. Trong đó có 15.800.000 đồng là tiền đánh bạc cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Số tiền 10.000.000 đồng là tiền riêng của bị cáo T cần trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại bị cáo H 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen có số IMEI 1: 86151640719539 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội và đề xuất quan điểm giải quyết vụ án, các bị cáo không tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Không ai có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, H đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 23/9/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 41, phố X, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang, khi Lê Thị Thu T đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề trái phép cho khách thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. Tổng số tiền T đánh bạc ngày 23/9/2020 xác định là:

58.317.000 đồng, trong đó, Giáp Văn H đánh bạc bằng hình thức mua số lô, số đề trái phép của T với tổng số tiền là 5.030.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Lê Thị Thu T đã phạm vào tội “Đánh bạc” được quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi nêu trên của Giáp Văn H đã phạm vào tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã H, đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Do vậy cần xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Căn cứ tính chất, vai trò của các bị cáo, H đồng xét xử xét thấy: Hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo T tham gia đánh bạc với nhiều người nên có vai trò chính. Bị cáo H tham gia đánh bạc với T với vai trò đồng phạm.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo H ra đầu thú, bị cáo T có bố đẻ là ông Lê Văn H (Lê Mạnh H) được tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS.

Bị cáo Giáp Văn H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với Lê Thị Thu T về hành vi bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn T ngày 30/8/2020 và rút tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS đối với bị cáo T là có căn cứ, cần chấp nhận.

Năm 2016 bị cáo T bị Tòa án nhân dân huyện L xử phạt 05 tháng tù, cho hưởng án treo về tội Đánh bạc và phạt tiền 4 triệu đồng, bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án và đã được xóa án tích.

Từ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo H đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lê Thị Thu T đã từng bị đưa ra xét xử về tội Đánh bạc nhưng đã được xóa án tích. Bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS, có nơi cư trú ổn định, cụ thể rõ ràng nên cho các bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cải tạo tại địa phương cũng đủ sức giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt.

Ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung. Phạt bị cáo T 20 triệu đồng để sung công quỹ Nhà nước. Phạt bị cáo H 10 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Tại cơ quan điều tra, T khai những số lô, số đề T bán trái phép cho khách, T sẽ tổng hợp lại rồi dùng điện thoại chụp ảnh và chuyển qua zalo cho anh Trần Quang Hà, sinh năm 1978, trú tại tổ dân phố Thân Phú, Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang để hưởng chênh lệch phần trăm. Quá trình điều tra, Hà không thừa nhận việc nhận các số lô, số đề do T chuyển đến. Kết quả khám xét khẩn cấp nơi ở và kiểm tra điện thoại của Hà đều không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì chứng minh Hà tham gia đánh bạc với T. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Hà.

Đối với anh Trần Văn H, Nguyễn Duy Giang, Phạm Văn T, An Mạnh K, Từ Văn H, Nguyễn Văn Thuyết và Nguyễn Văn L là những người mua số lô, số đề của Lê Thị Thu T. Do hành vi của anh H, anh Giang, anh T, anh K, anh H, anh Thuyết và anh L chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên ngày 25/3/2021, Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với các đối tượng về hành vi “Đánh bạc trái phép” bằng hình thức “Mua các số lô, số đề” theo quy định tại Khoản 1- Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Đối với hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề trái phép của Giáp Văn H với Lê Thị Thu T vào những ngày trước, quá trình điều tra xác định số tiền đánh bạc trong các ngày này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, ngày 26/3/2021, Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với H về hành vi “Đánh bạc trái phép” bằng hình thức “Mua các số lô, số đề” theo quy định tại Khoản 1- Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ với mức phạt 350.000 đồng.

Đối với đối tượng tự khai là Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1976, trú tại thôn Tân Cầu, xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang có hành vi mua số lô, số đề trái phép của T sau đó bị bắt quả tang. Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, Sơn đã lợi dụng sơ hở bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã xác minh tại xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nhưng không có đối tượng nào có căn cước, lai lịch và tên tuổi như trên nên không có căn cứ để xử lý theo quy định.

Đối với anh Bùi Văn Liêm, anh Phạm Ngọc Thiện, theo T khai là những người nhắn tin mua số lô, số đề của T. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, hiện không có mặt ở địa phương. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ tiếp tục xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với tài khoản zalo mang tên “Hiếu”, tài khoản zalo mang tên “Anh hao quang”, tài khoản zalo mang tên “Đoàn Văn Tân”. T khai không biết tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm của người có tài khoản zalo đó nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác minh, xử lý đối với những người này.

Trong vụ án này, theo T khai có anh Nguyễn Văn Vượng, anh Phan Văn Việt, anh Hoàng Viết Thu, anh Dương Văn Bắc, anh Nguyễn Văn Quyên, anh Dương Văn Thanh, anh Phan Văn Tá, anh Nguyễn Văn Huấn, anh Phan Huy Thông, anh Trương Văn Hồng nhắn tin cho T để hỏi mua số lô, số đề. Anh Vượng, anh Việt, anh Thu, anh Bắc, anh Quyên, anh Thanh, anh Tá, anh Huấn, anh Thông và anh Hồng đều không thừa nhận mua số lô, số đề với Lê Thị Thu T nên không có căn cứ để xử lý theo quy định.

Đối với tờ bảng kê dự thưởng xổ số, lô tô đề ngày 23/9/2020, bên trong có nhiều dãy số tự nhiên, T khai đây là các số lô tô do T tự ghi để gửi cho công ty xổ số kiến thiết Bắc Giang ngày 23/9/2020. Tổng số tiền trong bảng kê này là 280.000 đồng. Theo kết quả do công ty TNHH một thành viên XSKT Bắc Giang cung cấp, ngày 23/9/2020, T đã gửi bảng kê nói trên cho công ty theo quy định.

Riêng hành vi đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, số đề trái phép của Lê Thị Thu T vào những ngày trước, quá trình điều tra xác định số tiền đánh bạc trong các ngày này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, ngày 25/3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với T theo Điểm d Khoản 2 Điều 26 Nghị Định số 167/CP, ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức phạt 1.500.000 đồng. T đã chấp hành xong quyết định này.

[ 2] Về vật chứng đã thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại di động Samsung, màu đen, có số IMEI1: 353415082401582/01; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu đen, có số Seri: 356048036696473; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, có số IMEI: 355401102085173/01; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone màu hồng có số IMEI: 353293071080810 là các điện thoại các bị cáo dùng liên lạc để đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

01 bút bi mực màu xanh cần tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra thu giữ số tiền 25.800.000 đồng. Trong đó có 15.800.000 đồng là tiền đánh bạc cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Số tiền 10.000.000 đồng là tiền riêng của bị cáo T cần trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen có số IMEI 1:

86151640719539 của bị cáo H không liên quan đến đánh bạc cần trả lại bị cáo H nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[3] Án phí và quyền kháng cáo: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 58 và Điều 65 của BLHS.

Xử phạt: Lê Thị Thu T 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách 5 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, 58 và Điều 65 của BLHS.

Xử phạt: Giáp Văn H 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của BLTTHS.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 15.800.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động Samsung, màu đen, có số IMEI1: 353415082401582/01; 01 chiếc điện thoại di động Nokia, màu đen, có số Seri: 356048036696473; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, có số IMEI: 355401102085173/01; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone màu hồng có số IMEI: 353293071080810.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi mực màu xanh.

- Trả lại bị cáo T số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại bị cáo H: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen có số IMEI 1: 86151640719539 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136; Điều 331, Điều 333 của BLTTHS. Các Điều 21 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc H quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lê Thị Thu T và Giáp Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 100/2021/HS-ST

Số hiệu:100/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về