TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MINH, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 21/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2024/TLST-HS ngày 05/02/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 08/3/2024 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn C, sinh năm 1990 tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn N, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 0020900061xx, cấp ngày 27/6/2021; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Hoàng Thị H, sinh năm: 1947; có vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1992 và con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
2. Nguyễn Văn L, sinh năm 1992 tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 0020920002xx, cấp ngày 23/3/2021; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị R, sinh năm: 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Minh xử phạt 28 tháng tù về tội cố ý gây thương tích. Đã chấp hành xong hình phạt và hiện đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
3. Nguyễn Văn C1, sinh năm 1992 tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn C, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 00209201xxxx, cấp ngày 29/9/2022; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T2, sinh năm 1968 và bà Triệu Thị H1, sinh năm: 1972; có vợ Trương Thị Đ, sinh năm 1993 và con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2017, con nhỏ nhất sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
4. Nguyễn Văn T3, sinh năm 1995 tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 0020950050xx, cấp ngày 25/6/2021; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T4 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H2, sinh năm: 1976; có vợ Nguyễn Thị L1, sinh năm 1994 và con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
5. Nguyễn Văn H3, sinh năm 1992 tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang; CCCD số: 0020920050xx, cấp ngày 25/6/2021; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Đ1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị H4, sinh năm: 1958; có vợ Nguyễn Thị U, sinh năm 1990 và con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1: Bà Bùi Thị H5 - Trợ giúp phiên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H. Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H3: Bà Nguyễn Thị Lan H6 - Trợ giúp phiên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T3: Bà Lục Thùy L2 - Trợ giúp phiên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H. Có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn T5, sinh năm 2003; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Ông Trương Văn Đ2, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện Y, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại nhà ở của mình bị cáo Nguyễn Văn C lấy bài tú lơ khơ mà C1 mua về để ở gian giữa nhà và rủ mọi người đánh L3 ăn tiền, C1 và T3 đồng ý đánh bạc ăn tiền nhưng T3 bảo không mang nhiều tiền nên C đưa cho T3 vay số tiền 1.500.000đ. Sau khi có tiền C, C1, T3 cùng nhau ngồi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thắng, thua bằng tiền. Sau khi C, C1 và T3 đánh bạc ăn tiền được khoảng 30 phút thì L hỏi C1 để vay số tiền 1.000.000đ nên C1 đồng ý cho L vay tiền sau khi có tiền L sử dụng 1.000.000đ bắt đầu tham gia đánh bạc ăn tiền cùng với C, C1, T3. Khoảng 10 phút sau thì H3 cũng sử dụng số tiền 800.000đ có sẵn trên người đề tham gia đánh bạc cùng C, C1, T3, L. Quá trình đánh bạc, Nguyễn Văn C sử dụng số tiền 1.770.000đ để tham gia đánh bạc, Nguyễn Văn C1 sử dụng số tiền 4.533.000đ tham gia đánh bạc, Nguyễn Văn T3 sử dụng số tiền 1.766.000đ (trong đó 1.500.000đ là tiền Thưởng vay của C), Nguyễn Văn L sử dụng số tiền 1.000.000đ (là số tiền L vay của C1) để tham gia đánh bạc và Nguyễn Văn H3 sử dụng số tiền 800.000đ để đánh bạc. Đến khoảng 23 giờ 40 phút thì bị lực lượng Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang. Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H3, đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng ăn tiền: Trên chiếu bạc thu giữ số tiền 3.048.000đ; 52 quân bài tú lơ khơ được in hoa văn nhiều màu sắc; 06 mảnh giấy có kích thước khác nhau dạng quân bài tú lơ khơ bị xé rách và 01 chiếu nhựa in hoa văn nhiều màu sắc. Nguyễn Văn C1 tự nguyện giao nộp số tiền 4.105.000đ, Nguyễn Văn T3 tự nguyện giao nộp số tiền 206.000đ và Nguyễn Văn C tự nguyện giao nộp số tiền 10.000đ. Toàn bộ số tiền C, C1 và T3 tự nguyện giao nộp là tiền C1, C và T3 sử dụng để đánh bạc, trong quá trình đánh thắng đã cất vào túi quần, áo đang mặc trên người.
Tại Bản kết luận định giám định số: 20/KL-KTHS ngày 26 tháng 12 năm 2023 của Phòng K Công an tỉnh H kết luận: Tổng số 80 tờ tiền Việt Nam thu giữ khi bắt quả tang các bị cáo đánh bạc gửi giám định đều là tiền thật.
Bản Cáo trạng số: 06/CT-VKS ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung của bản cáo trạng đã nêu.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H3 phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù; căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng; căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C1 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ; xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 mỗi bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của BLHS năm 2015 vì các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có việc làm ổn định, không có tài sản nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; các điểm a, c khoản 2 điều 106 của BLTTHS năm 2015 đề nghị HĐXX tuyên tịch thu tiêu hủy: 52 (năm mươi hai) quân bài tú lơ khơ được in hoa văn nhiều màu sắc, gồm các chất rô, cơ, bích, tép, phăng teo; 06 (sáu) mảnh giấy có kích thước khác nhau, dạng quân bài tú lơ khơ bị xé rách rời, trên các mảnh giấy đều được in hoa văn nhiều màu sắc khác nhau; 01 (một) chiếu nhựa in hoa văn nhiều màu sắc, đã qua sử dụng; Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của BLHS năm 2015; điểm b khoản 2 điều 106 của BLTTHS năm 2015 đề nghị HĐXX tuyên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 7.369.000đ (bảy triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn đồng) tiền Việt Nam.
Về án phí: Các bị cáo đều thuộc đối tượng được miễn án phí, tại phiên tòa các bị cáo đều có đơn xin miễn án phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho các bị cáo.
Những người bào chữa cho các bị cáo đều khẳng định việc điều tra truy tố xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đều nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát đã đề nghị, tuy nhiên người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn C đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử phạt từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo vì có đủ điều kiện để được hưởng án treo.
Các bị cáo đều không bổ sung bào chữa, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt; người bào chữa cho bị cáo C giữ nguyên quan điểm tranh luận.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt đều xác nhận đã nhận được tài sản không có yêu cầu gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm không nhất trí với ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo C vì bị cáo là người khởi xướng thực hiện hành vi đánh bạc, nên vai trò của bị cáo là quan trọng nhất trong vụ án, do vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm.
Người bào chữa cho bị cáo C giữ nguyên quan điểm không tranh luận gì thêm.
Lời nói sau cùng của các bị cáo đều tỏ ra ăn năn hối cải mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung bào chữa của người bào chữa, nghe lời khai của các bị cáo và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do người bào chữa, các bị cáo, người tham gia tố tụng cung cấp trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo. Do đó, những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do người bào chữa, các bị cáo, người tham gia tố tụng cung cấp trong quá trình điều tra, truy tố trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T5, Nguyễn Thị U, Trương Văn Đ2 nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt và có quan điểm yêu cầu gửi cho Tòa án. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt những người nêu trên.
[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra; các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 18/12/2023, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; quyết định trưng cầu giám định, Kết luận giám định số: 26/KL-KTHS ngày 26/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh H, phù hợp về thời gian, địa điểm và các thành phần tham gia, đã xác định được: Với động cơ mục đích vụ lợi, khoảng 22 giờ 30 phút 18/12/2023 tại nhà ở của mình, Nguyễn Văn C đã khởi xướng việc đánh bài được thua bằng tiền bằng hình thức đánh liêng, sau đó Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1 và Nguyễn Văn T3 cùng nhau đánh liêng ăn tiền. Đến khoảng 23 giờ thì Nguyễn Văn L cũng tham gia vào đánh bạc ăn tiền, đến khoảng 23 giờ 10 phút thì Nguyễn Văn H3 cũng bắt đầu tham gia đánh bạc. Chuyền, C1, T3, L, H3 cùng nhau đánh bạc đến 23 giờ 40 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang thu giữ tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 7.369.000đ (bảy triệu ba trăm sáu mươi chỉn nghìn đồng). Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Minh truy tố và luận tội đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H3 phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân; các bị cáo đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng vì mục đích sát phạt nhau nhằm mục đích vụ lợi nên đã cố ý phạm tội, do vậy cần xử lý các bị cáo bằng biện pháp hình sự, với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.
[5] Về vai trò hành vi phạm tội: Các bị cáo phạm tội không có tổ chức, chỉ là đồng phạm giản đơn; các bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc bị thu giữ quả tang tại hiện trường là 7.369.000đ (bảy triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn đồng), trong đó:
[5.1] Bị cáo Nguyễn Văn C là người khởi xướng, rủ rê việc đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền. Bị cáo đã sử dụng số tiền 1.770.000đ (một triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng), trong đó bị cáo cho Nguyễn Văn T3 vay 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) để tham gia đánh bạc cùng nên bị cáo là người giữ vai trò quan trọng nhất của vụ án và phải chịu mức hình phạt cao nhất so với các bị cáo khác trong vụ án.
[5.2] Bị cáo Nguyễn Văn L là đồng phạm với vai trò là người thực hành trực tiếp tham gia đánh bạc với số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) vay của bị cáo C1. Mặt khác bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội phạm khác tuy đã được xóa án tích, nhưng bị cáo có nhân thân xấu, nên bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng nhưng nhẹ hơn mức hình phạt so với bị cáo C.
[5.3] Bị cáo Nguyễn Văn C1 là đồng phạm với vai trò vừa là người giúp sức trong việc mua bài tú lơ khơ về để đánh bạc vừa là người thực hành trực tiếp tham gia đánh bạc với số tiền lớn nhất là 4.533.000đ (bốn triệu năm trăm ba mươi ba nghìn đồng), đồng thời còn cho Nguyễn Văn L vay 1.000.000đ (một triệu đồng) để tham gia đánh bạc, nên bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng nhưng nhẹ hơn bị cáo Nguyễn Văn L.
[5.4] Bị cáo Nguyễn Văn T3 là đồng phạm với vai trò là người thực hành trực tiếp tham gia đánh bạc với số tiền là 1.766.000đ (một triệu bảy trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) trong đó vay của bị cáo C 1.500.000đ, nên bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng thấp hơn bị cáo Nguyễn Văn C1.
[5.5] Bị cáo Nguyễn Văn H3 là đồng phạm với vai trò là người thực hành trực tiếp tham gia đánh bạc với số tiền là 800.000đ (tám trăn nghìn đồng), nên bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng bằng mức hình phạt so với bị cáo Nguyễn Văn T3.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[7] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra Nguyễn Văn C còn có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là có mẹ đẻ được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, bản thân bị cáo đang phải nuôi 02 con nhỏ vì vợ đã bỏ đi khỏi địa phương không rõ tung tích theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[8] Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn C1, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 đều có nhân thân tốt, bị cáo Nguyễn Văn L có nhân thân xấu, ngày 25/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Minh xử phạt 28 tháng tù về tội cố ý gây thương tích, đã chấp hành xong hình phạt và hiện đã được xóa án tích; Đối với bị cáo Nguyễn Văn C là người khởi xướng, rủ rê việc đánh bạc nên cần có mức án nghiêm khắc nhất cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cũng như công tác phòng ngừa tội phạm; đối với các bị cáo Nguyễn Văn Luân Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 đều là đồng phạm có vai trò không đáng kể, đều có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, ngoài lần phạm tội này các bị cáo chấp hành đầy đủ chính sách pháp luật nhà nước, quy định địa phương nơi cư trú nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L với hình phạt tù cho hưởng án treo đồng thời ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 với hình phạt cải tạo không giam giữ, giao về địa phương theo dõi, giám sát, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội thể hiện sự khoan hồng và nghiêm minh của pháp luật.
[9] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập thấp và không ổn định, đều là người thuộc đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình các bị cáo đều thuộc diện nghèo, cận nghèo, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
[10] Biện pháp tư pháp: cần áp dụng Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự để quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Văn C kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 21/3/2024 cho đến khi bị cáo đi chấp hành án.
[11] Bị cáo Nguyễn Văn C, bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 nên được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù; các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 là 03 (ba) ngày, quy đổi 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ tổng là 09 (chín) ngày được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo.
[12] Về việc khấu trừ thu nhập: Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước, tuy nhiên xét thấy các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 vì các bị cáo đều không có nghề nghiệp, thu nhập thấp và không ổn định, đều là người thuộc đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình các bị cáo đều thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, do vậy miễn việc khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.
[13] Về áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng: Các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ theo quy định tại khoản 4 Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
[14] Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố Tụng hình sự để xử lý vật chứng của vụ án, cụ thể:
[14.1] Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng là công cụ phạm tội và vật không có giá trị sử dụng gồm: 52 (năm mươi hai) quân bài tú lơ khơ được in hoa văn nhiều màu sắc, gồm các chất rô, cơ, bích, tép, phăng teo; 06 (sáu) mảnh giấy có kích thước khác nhau, dạng quân bài tú lơ khơ bị xé rách rời, trên các mảnh giấy đều được in hoa văn nhiều màu sắc khác nhau; 01 (một) chiếu nhựa in hoa văn nhiều màu sắc, đã qua sử dụng.
[14.2] Cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 7.369.000đ (bảy triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn đồng) do các bị cáo sử dụng đề đánh bạc.
[15] Đối với một số đồ vật thu giữ trong quá trình điều tra xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, nên ngày 25/01/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 25/QĐ-ĐCSHS- KTMT xử lý bằng hình thức trả lại những tài sản trên cho chủ sở hữu hợp pháp là thỏa đáng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[16] Về án phí: Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 đều có đơn xin miễn án phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.
[ 17] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, những người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[18] Ý kiến của người bào chữa cho bị báo Nguyễn Văn C đề nghị áp dụng mức hình phạt 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo đối với bị cáo C là không tương xứng với vai trò, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023.
Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Văn C kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 21/3/2024 cho đến khi bị cáo đi chấp hành án.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 21/3/2024.
Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Gia đình bị cáo Nguyễn Văn L có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C2 22 (hai mươi hai) tháng cải tạo không giam giữ; xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 mỗi bị cáo 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 mỗi bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 22/12/2023 là 03 (ba) ngày, quy đổi 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ tổng là 09 (chín) ngày; bị cáo Nguyễn Văn C2 phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ còn lại là 21 (hai mươi mốt) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày; các bị cáo Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 mỗi bị cáo phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ còn lại là 17 (mười bảy) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày.
Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện Y, tỉnh Hà Giang nhận được quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn C2 cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang để giám sát, giáo dục; gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Giao các bị cáo Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang để giám sát, giáo dục; gia đình những người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
Trường hợp người chấp hành án vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Miễn việc khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3.
Buộc các bị cáo Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3 phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015.
+ Tịch thu tiêu hủy: 52 (năm mươi hai) quân bài tú lơ khơ được in hoa văn nhiều màu sắc, gồm các chất rô, cơ, bích, tép, phăng teo; 06 (sáu) mảnh giấy có kích thước khác nhau, dạng quân bài tú lơ khơ bị xé rách rời, trên các mảnh giấy đều được in hoa văn nhiều màu sắc khác nhau; 01 (một) chiếu nhựa in hoa văn nhiều màu sắc, đã qua sử dụng.
+ Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 7.369.000đ (bảy triệu ba trăm sáu mươi chín nghìn đồng) tiền Việt Nam.
(Tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan Điều tra Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Minh lập ngày 05/02/2024).
5. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) cho các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C2, Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn H3.
6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
7. Về thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tội đánh bạc số 07/2024/HS-ST
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Minh - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về