Bản án về tội đánh bạc số 06/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 06/2022/HSST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 05/2022/TLST-HS, ngày 10 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Nguyễn Thị H, tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nữ.

Sinh ngày 20 tháng 4 năm 1982 tại huyện T, Cao Bằng; Nơi cư trú tại: xóm T, xã H, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Nông Văn M (đã chết), con bà Nguyễn Thị X (đã chết); Chồng: Nông Văn T (đã chết); Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014;

Tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/01/2022 cho đến nay. Bị cáo hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Ma Thị T, tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nữ. Sinh ngày 03 tháng 02 năm 1968 tại huyện B, Bắc Kạn;

Nơi cư trú tại: xóm T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 10/10; Con ông Ma Văn S (đã chết), con bà Nông Thị T, sinh năm 1938; Chồng: Nguyễn Văn H, sinh năm 1964; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1991;

Tiền án, tiền sự: không có;

Về nhân thân: Ngày 26/8/2017, cùng đồng bọn đánh bạc; Công an huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng xử lý vi phạm hành chính, số hồ sơ: 49XP0917/20315D; số lưu trữ: 125XP17/20315V.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/01/2022 cho đến nay. Bị cáo hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

3. Bị cáo Đặng Ngọc B, tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nữ. Sinh ngày 12 tháng 01 năm 1989 tại huyện Q, Cao Bằng;

Nơi cư trú tại: Phố H, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Đặng Văn H, sinh năm 1954, con bà Nông Thị R, sinh năm 1954; Chồng: Nguyễn Ngô H, sinh năm 1985; Con: Có 01 con sinh năm 2010; ;

Tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/01/2022 cho đến nay.Bị cáo hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

4. Bị cáo Cam Văn Th, tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1958 tại huyện H, Cao Bằng;

Nơi cư trú tại: xóm T, thị trấn N, huyện H tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/10; Con ông Cam Văn H (đã chết), con bà Nông Thị N (đã chết); Vợ: Hoàng Thị T, sinh năm 1969; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1991;

Tiền án, tiền sự: không có; Về nhân thân:

- Ngày 05/5/2012, Đánh bạc; Công an huyện Hòa An, Cao Bằng xử lý vi phạm hành chính, Số hồ sơ: 40XP0621/20315D; Số lưu trữ: 29XP21/20315V.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/01/2022 cho đến nay. Bị cáo hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22 giờ 30 phút, ngày 29/12/2021, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an huyện Hòa An làm nhiệm vụ tại khu vực xóm T, xã H, huyện H, tỉnh Cao Bằng thì phát hiện có 04 đối tượng gồm Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B và Cam Văn Th đang đánh bạc tại nhà của Nguyễn Thị H nên tiến hành kiểm tra, kết quả đã thu giữ: 01 bộ tú lơ khơ 52 quân bài, 6.273.000 đồng (sáu triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng) trên cH bạc và trong người của các đối tượng.

Quá trình điều tra các bị cáo đều khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/12/2021 cả T, B và Th cùng rủ nhau đến nhà Nguyễn Thị H để đánh bạc. Đến nơi 04 người ngồi tại bàn trong gian bếp nhà H dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài để đánh “Phỏm ù” (tá lả) với cách chơi như sau: Mỗi người chơi sẽ được chia 09 quân bài, riêng người về nhất được chia 10 quân và được đi trước, các quân bài được tính lần lượt từ A, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K (tương đương số điểm từ 1 đến 13 điểm). Trong khi chơi nếu người nào “Ù” (hạ hết các quân bài trên tay) ván chơi kết thúc, nếu không có ai “Ù” thì sau 04 lượt đánh sẽ hạ bài để tính điểm, những lá bài không tạo được phỏm sẽ cộng với nhau để tính điểm sau đó người nào có ít điểm nhất thì sẽ là người thắng. Tỷ lệ đặt cược như sau: Nếu có một người “Ù” thì 03 người còn lại mỗi người sẽ mất 25.000 đồng, nếu không có người “Ù” thì người thắng sẽ được 5.000 đồng từ người về thứ hai, 10.000 đồng từ người về thứ ba và 15.000 đồng từ người về cuối cùng đồng thời nếu người chơi không tạo được phỏm nào sẽ mất 20.000 đồng cho người về thứ nhất của ván bài đó. Khi đang chơi đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị cơ quan Công an bắt quả tang đưa về trụ sở phục vụ việc điều tra.

Tại Cáo trạng số: 06/CTr – VKS.HA ngày 03/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B, Cam Văn Th về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hòa An giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị H, Đặng Ngọc B, Ma Thị T, Cam Văn Th phạm tội “ Đánh bạc” Xử phạt: Các bị cáo Nguyễn Thị H , Ma Thị T, Cam Văn Th từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Bị cáo Đặng Ngọc B 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

-Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

-Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 6.273.000đ (Sáu triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng); tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đã qua sử dụng.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt. Trong lời nói sau cùng của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội: Lời khai của các bị cáo Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B và Cam Văn Th tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hòa An lập hồi 22 giờ 30 phút ngày 29/12/2021 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở để HĐXX kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, tại nhà của Nguyễn Thị H có 04 người là: Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B và Cam Văn Th đã cùng nhau đánh bạc bằng hình thức chơi “Phỏm ù” và bị cơ quan Công an huyện Hòa An bắt quả tang, thu giữ tang vật là 01 bộ tú lơ khơ có 52 quân bài và 6.273.000đ (sáu triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng). Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp trật tự công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an và nếp sống văn minh xã hội, gây ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình. Các bị cáo đều là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì muốn kiếm tiền nhanh chóng các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước.

[4] Xét vai trò của các bị cáo cho thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều tham gia thực hiện tội phạm với vai trò thực hành, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án không xác định được người khởi xướng việc đánh bạc, không có sự phân công cụ thể. Các bị cáo tự nguyện đánh bạc và không có sự bàn bạc trước, không quy định về thời gian và số tiền dùng để đánh bạc, chỉ quy định mức sát phạt với số tiền là từ 5.000 đồng đến 25.000 đồng.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

Về nhân thân thì các bị cáo Nguyễn Thị H, Đặng Ngọc B đều có nhân thân tốt, trước khi phạm tội lần này chưa vi phạm pháp luật lần nào. Đối với bị cáo Ma Thị T, Cam Văn Th là có nhân thân xấu cụ thể: Bị cáo Ma Thị T có 01 tiền sự Tại Quyết định số: 224/QĐ-XPHC ngày 20/9/2017 của công an huyện Hòa An, xử phạt về Hành vi đánh bạc bằng hình thức phạt tiền mức 1.000.000đ (đã thi hành xong ngày 25/9/2017). Bị cáo Cam Văn Th có 01 tiền sự Tại Quyết định số: 135/QĐ-XPHC ngày 14/5/2012 của công an huyện Hòa An, xử phạt về Hành vi đánh bạc bằng hình thức phạt tiền mức 1.000.000đ (đã thi hành xong ngày 14/5/2012). Tính đến ngày các bị cáo phạm tội đã được xóa. Tuy nhiên, bị cáo T, bị cáo Th không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục phạm tội. Do tiền sự đã được xóa nên được xác định là các bị cáo không có tiền sự. Hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, không có sự sắp đặt, bàn bạc từ trước mà trong lúc bột phát các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa các bị cáo khai đều là nghề nghiệp làm ruộng hoặc lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không có khả năng để thi hành mức xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt cao hơn mức phạt tiền là hình phạt tù đối với các bị cáo. Xét nhân thân và tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo: Đối với bị cáo H đã dùng địa điểm nhà của mình để cho các bị cáo đánh bài, còn bị cáo T, bị cáo Th có nhân thân xấu do đó cần áp dụng mức hình phạt cao hơn bị cáo B là phù hợp. Để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật cần áp dụng hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt đối với bị cáo H, T, Th. Từ những phân tích trên xét các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà nên giao các bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú, lao động để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm của mình để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội sau này.

[7] Về hình phạt bổ sung: Vì các bị cáo đều nghề nghiệp làm ruộng hoặc lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 6.273.000 đồng các bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với một bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B, Cam Văn Th.

Tuyên bố:

1. Các bị cáo Nguyễn Thị H, Ma Thị T, Đặng Ngọc B và Cam Văn Th phạm tội “Đánh bạc”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Thị H 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 30/3/2022.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, Cao Bằng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, Cao Bằng trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

- Bị cáo Ma Thị T, bị cáo Cam Văn Th 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 30/3/2022.

- Bị cáo Đặng Ngọc B 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 30/3/2022.

Giao các bị cáo Ma Thị T, Cam Văn Th, Đặng Ngọc B cho Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện H, Cao Bằng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện H, Cao Bằng trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.273.000đ (Sáu triệu hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng);

- Tịch thu, tiêu hủy một bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện nay đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 20 ngày 09/3/2022).

4. Về án phí: : Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Buộc các bị cáo Nguyễn Thị H,Đặng Ngọc B, Ma Thị T và Cam Văn Th, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

474
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 06/2022/HSST

Số hiệu:06/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về