TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 06/2022/HS-PT NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 324/2021/TLPT-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn B. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HSST ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện M'đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn B, sinh năm 1969 tại Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 5/10; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông Nguyễn Văn S và Nguyễn Thị N (đều đã chết); Có vợ Lê Thị H và có 03 con (lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh 2008); Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2017/HSST ngày 03/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrăk xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 01 năm và phạt tiền bổ sung 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/12/2020 đến ngày 29/12/2020, hiện bị cáo đang tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn B: Luật sư Trần Trọng H1 – Văn phòng luật sư C thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Bùi Thị H2. Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Thôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Ông Lê Xuân H3, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Bà Đỗ Thị L, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Ông Đặng Thúc H4, sinh năm 1966. Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Bà Lê Thị T, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Bà Lê Thị H5, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Thôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
- Ông Võ Văn T1, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Thị H2 quen biết với bà Đỗ Thị Thanh L và biết bà L có chơi số đề nên khoảng giữa tháng 12/2020, H2 nhận ghi số đề được thua bằng tiền qua tin nhắn điện thoại cho những người chơi có nhu cầu đặt cược với hình thức đặt cược như sau: Người chơi muốn đặt cược thì gửi tin nhắn đặt cược có nội dung ghi các "cửa" muốn cược, các con số mà mình muốn đặt cược và số điểm đặt cược đến số điện thoại di động (ĐTDĐ) của H2, theo quy ước giữa H2 với những người tham gia đặt cược, nếu bao lô thì mỗi điểm số đặt cược tương ứng với số tiền 13.000 đồng trên mỗi số đặt cược thì ra số tiền người chơi phải trả cho người ghi số đề, nếu đặt từng số hoặc từng giải thì tính trên số điểm của người chơi (ví dụ 50đ(điểm) = 50.000đồng). Sau khi nhận được tin nhắn và đồng ý nhận cược với người chơi, H2 nhắn tin chuyển các tin nhắn đặt cược của những người chơi này cho bà L để bà L cá cược ăn thua với người chơi. Sau khi có kết quả xổ số của các tỉnh miền Bắc và miền Trung đặt cược cùng ngày, dựa trên kết quả xổ số, nếu người chơi thua cược sẽ trả cho H2 số tiền mà người chơi đã đặt cược trước đó, sau đó H2 tổng hợp và chuyển lại cho bà L, nếu Loan thua cược thì Loan sẽ đưa cho H2 số tiền mà người chơi đã thắng cược để H2 trả cho người chơi. H2 sẽ được Loan trả cho tiền hoa hồng tùy theo lượng tiền ghi đề được cho Loan và mức độ thắng cược của bà L.
Vào lúc 15 giờ 40 phút ngày 22/12/2020, Nguyễn Văn B sử dụng ĐTDĐ Masstel số sim 0353820X nhắn vào số sim 0334224X của H2 để đặt cược với nội dung “Bao.54.500.d.30x500.d.79x500.d.db.30x650.d.g830x650.d”. Tức bao lô các số 54, 30, 79, mỗi con 500 điểm x 13.000 đồng x 3 số = 19.500.000 đồng; giải đặc biệt con số 30 với 650 điểm cược = 650.000 đồng, giải 8 số 30 với 650 điểm = 650.000 đồng (tự quy ước trường hợp đặt giải đặc biệt và giải 8 thì mỗi giải chỉ thu 500.000 đồng) dựa trên kết quả xổ số kiến thiết của tỉnh Đắk Lắk. Tổng số tiền Bình đặt cược cho các cửa 20.500.000 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn đặt cược từ Bình thì vào lúc 15 giờ 43 phút cùng ngày, H2 đã đồng ý nhận cược và nhắn lại cho Bình với nội dung là "OK".
Lúc 16 giờ 41 phút cùng ngày, H2 nhắn tin chuyển tiếp các tin nhắn của các đối tượng đặt cược khác cho Loan. Đến 16 giờ 45 phút cùng ngày, H2 chưa kịp chuyển đến cho bà L đối với kèo đặt cược của B thì bị Công an phát hiện. Do chưa có kết quả xổ số nên các đối tượng chưa chung tiền thắng thua cho nhau.
Vật chứng tạm giữ: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Masstel A9 gắn sim số 0353820X của Bình.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HSST ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện M'đrắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 09 (chín) tháng tù về tội "Đánh bạc". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/12/2020 đến ngày 29/12/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị H2, về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/9/2021, bị cáo Nguyễn Văn B kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm: Hành vi của bị cáo không đủ cấu thành tội đánh bạc nên không có tội, xin Tòa án phúc thẩm xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Quá trình tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xác định Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan, vì có căn cứ kết luận Bị cáo B đã đánh bạc với số tiền là 20.500.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn B, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.
Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là không đúng, vì bị cáo chỉ đánh bạc với số tiền là 20.500 đồng là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mặt khác Bị cáo B chỉ mới nhắn tin cho Bùi Thị H2 và chưa đưa tiền cho H2, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ cận nghèo nên không thể có số tiền lớn 20.500.000 đồng để đánh bạc. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án hoặc tuyên bố Bị cáo B không phạm tội “Đánh bạc”.
Kiểm sát viên, Luật sư, bị cáo đối đáp tranh luận với nhau và đều giữ nguyên quan điểm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng khác như Bùi Thị H2, Đỗ Thị Thanh L vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử, Kiểm sát viên cũng đề nghị xét xử vụ án. Do vậy, căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn B cho rằng bị cáo chỉ đặt cược bao lô 54, 30, 79 mỗi số 500 đồng, giải tám và giải đặc biệt 30 mỗi giải 650 đồng (tính thành 500 đồng), tổng số tiền cược là 20.500 đồng chứ không phải 20.500.000 đồng nên không cấu thành tội phạm. Bị cáo không đồng ý với nội dung toàn bộ Bản tự khai, Bản giải thích và các Biên bản ghi lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra là do Cơ quan điều tra ép cung phải khai theo hướng dẫn của cán bộ điều tra, nếu không khai sẽ bị giam giữ.
Tuy nhiên, bị cáo không xác định được tên của Điều tra viên và không có đơn khiếu nại, tố cáo cũng như không có căn cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, Bùi Bị H2 đều khai bị cáo Nguyễn Văn B ghi đề bao lô 03 cặp số đài Trung, gồm các số 54, 30, 79, mỗi con 500 điểm (500d) x 13.000 đồng x 3 số = 19.500.000 đồng; giải đặc biệt con số 30 với 650 điểm (650d) cược = 650.000 đồng, giải 8 số 30 với 650 điểm (650d) = 650.000 đồng (tự quy ước trường hợp đặt giải đặc biệt và giải 8 thì mỗi giải chỉ thu 500.000 đồng). Tổng số tiền Bình đặt cược là 20.500.000 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn đặt cược từ Bị cáo B thì H2 đã đồng ý nhận cược và nhắn lại cho Bị cáo B với nội dung là "OK".
Mặt khác, trong quá trình điều tra vụ án được thể hiện tại các bút lục số 183, 185, 186, bị cáo Nguyễn Văn B đã tự viết Bản tự khai, Bản giải thích về phơi đề thừa nhận ngày 22/12/2020, bị cáo nhắn tin qua điện thoại ghi đề với Bùi Thị H2 để ghi số đề, nội dung bao lô 03 cặp số đài Trung, mỗi số 500 điểm, giải 8 với 650 điểm, giải đặc biệt 650 điểm với tổng số tiền 20.500.000 đồng, sau khi có kết quả thì hai bên mới tính với nhau. Tại Biên bản hỏi cung bị can, bút lục 180, các biên bản ghi lời khai tại các bút lục số 169, 174, 175, Bị cáo B cũng thừa nhận sự việc như nội dung nêu trên. Như vậy, trong quá trình điều tra Bị cáo B đã khai nhận về hành vi phạm tội và khi được tống đạt Bản kết luận điều tra, Bản cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị cáo cũng không có ý kiến gì, khi Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên tòa thì bị cáo mới khai cho rằng bị cáo chỉ đánh bạc có 20.500 đồng.
Như vậy, lời khai của Bị cáo B trong quá trình điều tra là phù hợp với lời khai của Bùi Thị H2 và những người tham gia ghi đề cũng như vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện M'Đrắk truy tố và Tòa án nhân dân huyện M'Đrắk xét xử bị cáo Nguyễn Văn B về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên kháng cáo của Bị cáo B cho rằng bị cáo chỉ ghi đề tổng cộng số tiền 20.500 đồng là không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Bị cáo B.
[3] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH2 vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn B, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HSST ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện M'Đrắk.
[2] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Đánh bạc”;
Áp dụng khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tình từ ngày bắt đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/12/2020 đến ngày 29/12/2020.
[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 06/2021/HS-PT
Số hiệu: | 06/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về