TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 07/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 07 tháng 01 năm 2022, tại: Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HS ngày 17/12/2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm Minh T. Tên gọi khác: Mười. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 26/4/1999, tại: Huyện V, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn Vĩnh Hòa, xã T, huyện V, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: không. Trình độ học vấn: 10/12. Họ tên cha: Phạm Văn Tr, sinh năm 1955. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956. Gia đình có 08 anh em, bị can là con út trong gia đình. Tiền án: có 01 tiền án tại bản án số 07/2021/HS-ST, ngày 18/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định tuyên phạt bị cáo Phạm Minh T 12 tháng cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung 15.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tiền sự: Không. Bị cáo Phạm Minh T bị tạm giam từ ngày 26/3/2021 đến ngày 28/4/2021. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh từ ngày 29/4/2021 đến nay – có mặt.
2. Họ và tên: Bùi Thế V. Tên gọi khác: không. Giới tính: nam. Sinh ngày: 16/02/2002, tại: V, Bình Định. Nơi cư trú: Thôn Định Xuân, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: sinh viên. Chức vụ: không. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Bùi Thế V, sinh năm 1976. Họ tên mẹ: Trần Thị Ch, sinh năm 1979. Gia đình có 02 anh em, bị can là con út trong gia đình. Tiền án/tiền sự: Không. Bị cáo Bùi Thế V bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 21/3/2021 đến nay – có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Minh T: Bà Nguyễn Thị Hồng T– trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bình Định – có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
(1). Anh Lê Trung T – sinh năm: 2002, địa chỉ: Thôn Định Quang, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(2). Anh Lê Nhật H – sinh năm: 2002, địa chỉ: Thôn Định Thái, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(3). Ông Đặng Văn Ph – sinh năm: 1974, địa chỉ: Thôn Định Thái, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(4). Anh Nguyễn Ngọc M – sinh năm: 1993, địa chỉ: Thôn Vĩnh Thọ, xã H, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(5). Anh Trần Thanh L – sinh năm: 1997, địa chỉ: Khu phố Định Tố, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(6). Anh Đỗ Thành Ch - sinh năm: 1998, địa chỉ: Thôn Kiên Long, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(7). Bà Trần Thị Ch – sinh năm: 1979, địa chỉ: Thôn Định Xuân, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(8). Ông Bùi Thế V – sinh năm: 1976, địa chỉ: Thôn Định Xuân, xã Q, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
(9). Anh Lê Văn H – sinh năm: 1998, địa chỉ: Thôn Vĩnh Hòa, xã T, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(10). Ông Nguyễn Văn Đ – sinh năm: 1969, địa chỉ: Thôn Thượng Sơn, xã Tây Thuận, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(11). Anh Phan Đức T – sinh năm: 1991, địa chỉ: Thôn Định Trị, xã H, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(12). Anh Đặng Đức H – sinh năm: 1990, địa chỉ: Khu phố Định Tân, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(13). Anh Đỗ Văn T - sinh năm: 2003, địa chỉ: Thôn Vĩnh Trường, xã T, huyện V, tỉnh Bình Định – có mặt.
- Người làm chứng:
(1). Anh Nguyễn Văn Ph – sinh năm: 1991, địa chỉ: Khu phố Định Thiền, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
(2). Anh Phạm Công D – sinh năm: 1986, địa chỉ: Khu phố Định Bình, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 08/9/2020, Phạm Minh T cùng với Nguyễn Ngọc M, Phạm Công D, Nguyễn Văn Ph, Trần Thanh L đến nhà Bùi Thế V đòi tiền nợ ghi số đề do V thua đề nợ tiền của T. Nhận được nguồn tin báo Công an huyện V tiến hành triệu tập các đối tượng có liên quan để làm việc, kết quả điều tra xác định vào khoảng tháng 8 năm 2020, Bùi Thế V có tham gia đánh bạc dưới hình thức mua lô đề do Phạm Minh T làm cái bán lô đề. Cụ thể như sau:
Đầu tháng 8 năm 2020 (không xác định thời gian cụ thể), khi đi chơi cùng nhau T có nói với V “Nay anh nhận ghi số đề, dưới Q có ai chơi thì giới thiệu chỗ anh” nghe vậy V biết T nhận ghi số đề ăn thua bằng tiền nên sau đó V đã chủ động xin được tham gia ghi số đề (mua lô đề) do T làm chủ đề (bán lô đề) với hình thức bao lô 02 số cuối (thường gọi là đánh 02 chân) thì T đồng ý. Đến cuối tháng 8 năm 2020, Tài dừng việc nhận ghi số đề ăn thua bằng tiền với V.
Phương thức đánh bạc dưới hình thức mua bán lô đề như sau: Người mua đề nhắn tin nội dung đánh số đề bao gồm con số bất kỳ có 02 chữ số kèm theo số điểm đặt cược đến người chủ đề (bán lô đề). Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết đài miền Trung và đài miền Bắc, người bán lô đề đối chiếu con số đánh đề của người mua với kết quả xổ số. Nếu con số người mua đề trùng với giải tám hoặc 02 số cuối của các lô trong các giải thưởng còn lại của kết quả xổ số (Tổng cộng có 18 lô đối với đài miền Trung và 27 lô đối với đài miền Bắc) thì người mua đề thắng với số tiền tương ứng 70.000 đồng/điểm (Đối với đài miền Trung) và 80.000 đồng/điểm (Đối với đài miền Bắc). Ngược lại, nếu giải tám hoặc 02 số cuối của các lô trong các giải thưởng còn lại không trùng với 02 con số đã đánh cược thì người mua đề thua và phải trả tiền cho người bán đề tương ứng với số điểm đã đánh cược.
Khi đó giữa T với V có thỏa thuận thống nhất cách thức quy đổi điểm thành tiền, cách tính tiền thắng, thua đề đối với xổ số kiến thiết miền Trung (Đài Trung) thì tiền mua đề là 12.600 đồng/điểm còn đối với xổ số kiến thiết miền Bắc (Đài Bắc) thì tiền mua đề là 21.600 đồng/điểm. Đánh đề đài miền Trung thì nhắn tin ghi đề trước 17 giờ hàng ngày, còn đối với đánh đề đài miền Bắc thì nhắn tin sau 17 giờ đến trước 18 giờ hàng ngày. Ngoài ra, T còn thỏa thuận với V là cứ hết tuần rồi tổng kết số tiền thắng thua một lần và cho nợ tiền gối đầu 30.000.000 đồng đối với V (tức là nếu V chơi trong tuần thua tiền đánh đề vượt quá khoản tiền 30.000.000 đồng thì T sẽ lấy phần vượt quá số tiền trên còn lại tiếp tục cho nợ).
V sử dụng điện thoại di động hiệu SAMSUNG GALAXY A11 được lắp sim số 0968.467.xxx nhắn tin con số muốn đánh đề và số điểm qua số điện thoại di động 0336.842.480 được lắp trong điện thoại SAMSUNG PRIME của T để tham gia ghi số đề, ngoài ra V còn nhắn tin ghi đề thông qua ứng dụng Mocha trên điện thoại di động. V tham gia ghi số đề trong thời gian 02 tuần, mỗi ngày V ghi đề khoảng từ 1.000 đến 2.000 điểm với số tiền mua đề từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng/ngày. Cụ thể các lần đánh đề giữa T và V diễn ra từ ngày 19/8/2020 đến ngày 30/8/2020 như sau:
- Lần thứ nhất, vào lúc 17 giờ 44 phút ngày 19/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền bắc (tỉnh Bắc Ninh) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 13 - 100 điểm, số 31 - 100 điểm, số 00 - 70 điểm, số 67 - 50 điểm, số 85 - 100 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 420 với 21.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 9.072.000 đồng, V trúng đề số 13 - 100 điểm, số 67 - 50 điểm thắng được số tiền 12.000.000 đồng. Vì vậy số tiền đánh bạc là 21.072.000 đồng.
- Lần thứ hai, vào lúc 15 giờ 27 phút ngày 25/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền trung (tỉnh Đắk Lắk) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 02 - 250 điểm, số 56 - 250 điểm, số 25 - 300 điểm, số 68 - 300 điểm, số 12 - 400 điểm, số 81 - 600 điểm, số 85 - 200 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 2.300 điểm với 12.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 28.980.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 28.980.000 đồng.
+ Lần thứ ba, vào lúc 16 giờ 04 phút ngày 26/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền trung (tỉnh Khánh Hòa) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 01 - 200 điểm, số 25 - 200 điểm, số 50 - 300 điểm, số 68 - 300 điểm, số 85 - 500 điểm, số 81 - 200 điểm, số 12 - 200 điểm, số 15 - 100 điểm, số 84 - 400 điểm” , tổng số điểm đặt cược là 2.400 điểm với 12.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 30.240.000 đồng, kết quả V trúng đề con số 15 - 100 điểm thắng được số tiền 7.000.000 đồng. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 37.240.000 đồng.
+ Lần thứ tư, vào lúc 17 giờ 52 phút ngày 26/8/2020, V tiếp tục nhắn tin ghi số đề đài Miền bắc (tỉnh Bắc Ninh) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 50 - 400 điểm, số 15 - 200 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 600 điểm với 21.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 12.960.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 12.960.000 đồng.
+ Lần thứ năm, vào lúc 16 giờ 32 phút ngày 28/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền trung (tỉnh Gia Lai) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 78 - 200 điểm, số 85 - 300 điểm, số 18 - 200 điểm, số 81 - 200 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 900 điểm với 12.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 11.340.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 11.340.000 đồng.
+ Lần thứ sáu, vào lúc 17 giờ 36 phút ngày 28/8/2020, V tiếp tục nhắn tin ghi số đề đài Miền bắc (tỉnh Hải Phòng) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 18 - 200 điểm, số 78 - 200 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 400 điểm với 21.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 8.640.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền V dùng đánh bạc là 8.640.000 đồng.
+ Lần thứ bảy, vào lúc 15 giờ 21 phút ngày 29/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền trung (thành phố Đà nẵng) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 21 - 400 điểm, số 36 - 800 điểm, số 63 - 800 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 2.000 điểm với 12.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 25.200.000 đồng, kết quả V trúng đề số 21 - 400 điểm thắng được số tiền 28.000.000 đồng. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 53.200.000 đồng.
+ Lần thứ tám, vào lúc 17 giờ 35 phút ngày 29/8/2020, V tiếp tục nhắn tin ghi số đề đài Miền bắc (tỉnh Nam Định) thông qua ứng dụng Mocha với nội dung “số 36 - 100 điểm, số 63 - 100 điểm, số 79 - 100 điểm, số 78 - 100 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 400 điểm với 21.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 8.640.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 8.640.000 đồng.
+ Lần thứ chín, vào lúc 15 giờ 56 phút ngày 30/8/2020, V nhắn tin ghi số đề đài Miền trung (tỉnh Kon Tum) thông qua số điện thoại di động với nội dung “số 36 - 800 điểm, số 63 - 800 điểm, số 56 - 600 điểm”, tổng số điểm đặt cược là 2.200 điểm với 12.600 đồng/điểm. Tổng số tiền mua đề là 27.720.000 đồng, kết quả V không trúng đề số nào. Vì vậy số tiền dùng đánh bạc là 27.720.000 đồng.
Sau khi dừng việc nhận ghi đề, T hẹn gặp V để xóa hết các tin nhắn đánh đề giữa V với T trong thư mục tin nhắn điện thoại của V nhưng trước đó V đã chụp lại ảnh màn hình một số tin nhắn thể hiện việc đánh đề giữa V với T và lưu trong điện thoại, quá trình điều tra đã giao nộp chiếc điện thoại cho Cơ quan điều tra, riêng chiếc điện thoại của T do bị vỡ nên T vứt bỏ, Cơ quan điều tra không thu giữ được. Đến ngày 08/9/2020, T cùng một số người đến nhà V đòi nợ và thỏa thuận chốt số tiền V phải trả là 60.000.000 đồng thì gia đình V đã trả đủ.
Quá trình điều tra bị cáo T và V còn khai nhận trong khoảng thời gian từ ngày 10/8/2020 đến ngày 18/8/2020 các bị cáo còn thực hiện nhiều lần mua, bán lô đề, kết quả T thua V số tiền 131.000.000 đồng nhưng T, V không xác định được thời gian mua, bán lô đề, con số nào, bao nhiêu điểm và đài nào. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ gì khác chứng minh các lần mua, bán lô đề và số tiền thắng đề của V. Do đó không có căn cứ cơ sở xem xét xử lý hành vi của T và V trong thời gian này.
Đối với số tiền khoảng hơn 100.000.000 đồng các bị cáo khai là số tiền V thua đề trong ngày 19/8/2020 và từ ngày 25/8/2020 đến ngày 30/8/2020, tuy nhiên cơ quan điều tra chỉ thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền 73.700.000 đồng trên thực tế V đã trả cho T, số tiền còn lại không có tài liệu chứng minh. Vì vậy, số tiền 73.700.000 đồng được xác định là tiền mà Phạm Minh T thu lợi bất chính từ việc đánh bạc.
(Bút lục số: 55-57; 59-63; 65; 177-214; 265-290) Ngày 02/02/2021, Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Đà Nẵng (C09C) ra kết luận về nội dung giám định, trích xuất tin nhắn trong ứng dụng “SMS” của điện thoại mà Bùi Thế V sử dụng đánh bạc. Kết quả như sau:
- Dữ liệu lưu trữ trong máy tìm thấy:
+ 85 tin nhắn SMS (76 tin nhắn gửi đến, 09 tin nhắn gửi đi) trong khoảng thời gian từ ngày 10/8/2020 – 31/8/2020 (theo thời gian hiển thị trên dữ liệu trích xuất được).
+ Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn của tài khoản có tên hiển thị “Thế Zũ” với tài khoản có tên hiển thị “Minh Tai” trong ứng dụng Messenger.
+ Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn của tài khoản có tên hiển thị “Thế Zũ” với tài khoản có tên hiển thị “Nhật Hoàng” trong ứng dụng Messenger.
+ Không tìm thấy ứng dụng Mocha nên không tìm thấy dữ liệu tin nhắn của tài khoản có tên hiển thị “TàiSốĐen” và “ A Tàiiii”.
+ Theo thông tin thuộc tính thời gian của dữ liệu trích xuất được, trong khoảng thời gian từ ngày 10/8/2020 - 31/8/2020 tìm thấy 36 file hình ảnh (33file hình ảnh có phần mở rộng “jpg”, 02 file hình ảnh có phần mở rộng “png”, 01 file hình ảnh có phần mở rộng “jpeg”) được thể hiện trong đĩa CD-R gửi kèm theo.
- Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn SMS trong khoảng thời gian từ ngày 10/8 – 31/8/2020 lưu trữ trong sim (trên sim có dãy số “898404800001878xxxx”).
Tiến hành kiểm tra nội dung lịch sử nhắn tin trong kết quả giám định dữ liệu điện tử không phát hiện nội dung liên quan đến hành vi mua bán lô đề giữa T và V. Kiểm tra 36 file hình ảnh trong đĩa kết quả giám định CD-R phát hiện 08 file ảnh có liên quan đến nội dung ghi số đề, trong đó có 07 file ảnh thể hiện nội dung đánh số đề của Bùi Thế V với Phạm Minh T phù hợp với các ảnh chụp màn hình mà V đã cung cấp cho Cơ quan điều tra vào ngày 24/9/2020 và 01 file ảnh liên quan đến hành vi đánh số đề giữa Lê Nhật H và ông Đặng Văn Ph. Đối với hành vi đánh bạc giữa Ph và H được phát hiện trong file ảnh nói trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã xác lập tin báo của một vụ việc khác để giải quyết theo quy định.
(Bút lục số: 29-34; 37-44) Ngày 12/4/2021, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội Viettel thông báo kết quả chủ số thuê bao mà Phạm Minh T, Bùi Thế V đã sử dụng như sau:
- Đối với Bùi Thế V sử dụng số thuê bao 096846xxxx do V đứng tên chủ sở hữu.
- Đối với Phạm Minh T sử dụng số thuê bao 033684xxxx do ông Đinh Văn H – SN: 2004 ở thôn O2, xã Vĩnh Kim, huyện V, tỉnh Bình Định đứng tên chủ sở hữu (Tài mua lại từ sim khuyến mãi).
(Bút lục số: 75-76) Về tình tiết tăng nặng: Phạm Minh T và Bùi Thế V cùng thực hiện 09 lần đánh bạc (tất cả đều trên 5.000.000 đồng) nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Riêng T có một tiền án về tội “Đánh bạc” do Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung 15.000.000 đồng (ngày 18/5/2021).
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm Minh T có cha ruột là người có công cách mạng.
Về vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành thu giữ các vật chứng sau:
- 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG GALAXY A11, màu đen và 01 (một) sim điện thoại số 0968.467.xxx (trên sim có dãy số 898404800001878xxxx) của Bùi Thế V;
- 10 (mười) tờ giấy là ảnh chụp màn hình điện thoại di động do Bùi Thế V cung cấp cho cơ quan điều tra vào ngày 24/9/2020;
- 01 (một) điện thoại di động IPHONE XS MAX, màu vàng của ông Nguyễn Ngọc M;
- 01 (một) USB ký hiệu KINGMAX 3.0 16GB màu đen, có chứa video nội dung Phạm Minh T cùng một số người đến nhà Vũ đòi nợ vào ngày 08/9/2020.
Tại Cáo trạng số 04/CT-VKSVT ngày 08 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định, truy tố các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V về tội “Đánh bạc” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình sự:
Đề nghị tuyên bố các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V phạm tội: “Đánh bạc”.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3, Điều 321; khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên phạt: Bị cáo Phạm Minh T 24 – 30 tháng tù và tổng hợp hình phạt còn lại chưa chấp hành của Bản án số 07/2021/HS-ST, ngày 18/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định là 05 tháng 28 ngày cải tạo không giam giữ chuyển đổi thành 01 tháng 29 ngày tù; đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với số tiền 10.000.000 đồng - 15.000.000 đồng.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3, Điều 321; Điều 35; khoản 1 Điều 54; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên phạt bị cáo Bùi Thế V 70.000.000 đồng – 100.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát: Đề nghị áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, khoản 2; điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, Tuyên tịch thu 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG GALAXY A11, màu đen và 01 (một) sim điện thoại số 0968.467.xxx (trên sim có dãy số 898404800001878xxxx) của Bùi Thế V là công cụ, phương tiện phạm tội sung ngân sách nhà nước. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 12/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Tuyên trả 01 (một) điện thoại di động IPHONE XS MAX, màu vàng là tài sản của ông Nguyễn Ngọc M vì trong quá trình điều tra không chứng minh được đó là công cụ phương tiện phạm tội. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 07/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Tuyên tịch thu số tiền bị cáo Phạm Minh T 09 lần cầm cái ghi đề cụ thể:
9.072.000 đồng + 28.980.000 đồng + 30.240.000 đồng + 12.960.000 đồng + 11.340.000 đồng + 8.640.000 đồng + 25.200.000 đồng + 8.640.000 đồng + 27.720.000 đồng = 162.792.000 đồng, tổng số tiền này là công cụ, phương tiện phạm tội và thu lợi bất chính của bị cáo nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Tuyên tịch thu số tiền bị cáo Bùi Thế V 03 lần ghi đề thắng do bị cáo T cầm cái cụ thể: 12.000.000 đồng + 7.000.000 đồng + 28.000.000 đồng = 47.000.000 đồng, tổng số tiền này là công cụ, phương tiện phạm tội và thu lợi bất chính của bị cáo nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Ý kiến của các bị cáo: Thống nhất theo bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Phạm Minh T: Bà Nguyễn Thị Hồng Thắm: Thống nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không có đề nghị gì thêm.
Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trong vụ án: Đều giữ nguyên lời khai có trong hồ sơ vụ án.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
\ Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Bình Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện.
Trong tháng 8 năm 2020, Phạm Minh T và Bùi Thế V đã có hành vi 09 lần đánh bạc bằng hình thức mua, bán lô đề vào các ngày 19, 25, 26 (02 lần), 28 (02 lần), 29 (02 lần) và 30/8/2020 với số tiền dùng đánh bạc lần lượt là 21.072.000 đồng, 28.980.000 đồng, 37.240.000 đồng, 12.960.000 đồng, 11.340.000 đồng, 8.640.000 đồng, 53.200.000 đồng, 8.640.000 đồng, 27.720.000 đồng. Trong đó, lần đánh bạc thứ 7 vào 15 giờ 21 phút ngày 29/8/2020 T và V sử dụng số tiền đánh bạc trên 50.000.000 đồng (53.200.000 đồng).
Hành vi của các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Như vậy, Bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 08/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện V truy tố các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy rằng: Hiện nay, trên địa bàn huyện tình hình tội phạm đánh bạc còn xảy ra nhiều, các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì “máu” lòng tham, tư lợi nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số đề thắng thua bằng tiền của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn công cộng tại địa phương, đánh bạc còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, trong đó làm không ít gia đình hạnh phúc bị đổ vỡ. Do đó, cần xử lý nghiêm các bị cáo tương xứng hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra.
[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Phạm Minh T, Bùi Thế V cùng thực hiện 09 lần đánh bạc (tất cả đều trên 5.000.000 đồng) nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Riêng T có một tiền án về tội “Đánh bạc” do Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung 15.000.000 đồng (ngày 18/5/2021) quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Phạm Minh T, Bùi Thế V đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo T có cha ruột là người có công cách mạng; bị cáo V hiện đang là sinh viên, phạm tội lần đầu là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về nhân thân: Bị cáo Bùi Thế V có nhân thân tốt.
[5]. Xét vai trò của trò của từng bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó:
Bị cáo Phạm Minh T là chủ đề đã thực hiện 09 lần ghi đề cho bị cáo V, xét thấy bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Bùi Thế V là người ghi đề và đã thực hiện 09 lần ghi đề chỗ bị cáo T làm chủ đề. Xét thấy, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo phạm tội lần đầu, hiện đang là sinh viên Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Công Nghệ Quy Nhơn nhưng vì không có thu nhập ổn định nên bị cáo đã bị bị cáo T chủ động rủ rê để ghi đề nhằm mục đích sẽ thắng đề và có tiền để tiêu sài cá nhân. Mặt khác, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy sẽ áp dụng khoản 1 Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật về việc không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo để đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục học tập để trở thành người tốt, có ích cho xã hội.
[6]. Xét hành vi của các đối tượng: Nguyễn Ngọc M, Lê Trung T, Lê Nhật H, Đặng Văn Ph, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các đối tượng này có dấu hiệu đồng phạm với các bị cáo về tội “Đánh bạc” nên khi Tòa án thụ lý hồ sơ đã ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số: 05/2021/HSST-QĐ ngày 06/9/2021 (Lần 01), nhưng Viện kiểm sát có Công văn số: 210/VKS-HS ngày 05/10/2021 về việc giữ nguyên quan điểm truy tố, chuyển hồ sơ vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung để giải quyết theo thẩm quyền. Vì vậy, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Vào ngày 03/11/2021, Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm, tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét cần phải trả hồ sơ điều tra bổ sung (Theo Quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung số: 01/2021/HSST-QĐ ngày 03/11/2021 (Lần 02)). Tiếp đó, đến ngày 03/12/2021 Tòa án nhận được Công văn số: 01/VKS ngày 02/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V về việc giữ nguyên quan điểm truy tố, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền. Do vậy, căn cứ vào “Giới hạn của việc xét xử” quy định tại khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[7]. Về các biện pháp tư pháp:
Xét 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG GALAXY A11, màu đen và 01 (một) sim điện thoại số 0968.467.xxx (trên sim có dãy số 898404800001878xxxx) của Bùi Thế V là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 12/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Xét 01 (một) điện thoại di động IPHONE XS MAX, màu vàng là tài sản của ông Nguyễn Ngọc M, trong quá trình điều tra không chứng minh được đó là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tuyên trả cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 07/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Xét tổng số tiền bị cáo Phạm Minh T 09 lần cầm cái ghi đề cụ thể:
9.072.000 đồng + 28.980.000 đồng + 30.240.000 đồng + 12.960.000 đồng + 11.340.000 đồng + 8.640.000 đồng + 25.200.000 đồng + 8.640.000 đồng + 27.720.000 đồng = 162.792.000 đồng, tổng số tiền này là công cụ, phương tiện phạm tội và thu lợi bất chính của bị cáo nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xét tổng số tiền bị cáo Bùi Thế V 03 lần ghi đề thắng do bị cáo T cầm cái cụ thể: 12.000.000 đồng + 7.000.000 đồng + 28.000.000 đồng = 47.000.000 đồng, tổng số tiền này là công cụ, phương tiện phạm tội và thu lợi bất chính của bị cáo nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
[9]. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát có một số vấn đề phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V phạm tội:
“Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3, Điều 321; khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt: Bị cáo Phạm Minh T 24 tháng tù, Tổng hợp hình phạt còn lại chưa chấp hành của Bản án số 07/2021/HS-ST, ngày 18/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Định là 05 tháng 28 ngày cải tạo không giam giữ chuyển đổi thành 01 tháng 29 ngày tù. Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chấp hành chung cho cả hai Bản án là 25 tháng 29 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án nhưng được khấu trừ thời hạn bị tạm giam từ ngày 26/3/2021 đến ngày 28/4/2021.
Phạt bổ sung bị cáo Phạm Minh T số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.
Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 3, Điều 321; Điều 35; khoản 1 Điều 54; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt: Bị cáo Bùi Thế V 70.000.0000 đồng (Bảy mươi triệu đồng) sung ngân sách nhà nước.
3. Về các biện pháp tư pháp:
Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, khoản 2; điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, Tuyên tịch thu 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG GALAXY A11, màu đen và 01 (một) sim điện thoại số 0968.467.xxx (trên sim có dãy số 898404800001878xxxx) của Bùi Thế V sung vào ngân sách Nhà nước. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 12/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Tuyên trả 01 (một) điện thoại di động IPHONE XS MAX, màu vàng cho chủ sở hữu ông Nguyễn Ngọc M. (Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận ngày 07/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bình Định).
Tuyên tịch thu của bị cáo Phạm Minh T số tiền bán lô đề là 162.792.000 đồng (Một trăm sáu mươi hai triệu, bảy trăm chín mươi hai nghìn đồng) sung ngân sách Nhà nước.
Tuyên tịch thu của bị cáo Bùi Thế V số tiền trúng lô đề là 47.000.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.
4. Về án phí sơ thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên buộc: Các bị cáo Phạm Minh T và Bùi Thế V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội đánh bạc số 05/2022/HS-ST
Số hiệu: | 05/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về