Bản án về tội đánh bạc số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/HSST-QĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/HSST-QĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Ngô Thị T, sinh ngày 04 tháng 8 năm 1977 tại huyện D, Quảng Nam; Nơi cư trú: Thôn G, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Thợ may; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn T1 (chết) và con bà: Đinh Thị B, sinh năm: 1940; có chồng là Lê Văn T2, sinh năm: 1973 và có 02 con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 03/02/2021, bị Công an thị trấn P, huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”, đã chấp hành xong ngày 26/02/2021.

Nhân thân:

- Ngày 03/3/2009: bị Công an huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc ăn tiền”, đã chấp hành xong ngày 20/3/2009.

- Ngày 25/10/2016: bị Công an huyện Đ, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”, đã chấp hành xong ngày 28/10/2016.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

-Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Văn Thị B, sinh ngày 13/5/1958; trú tại: Thôn N, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

2. Bà Bùi Thị Xuân S, sinh ngày 16/02/1957; trú tại: Tổ 20, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

3. Bà Trần Thị Xuân T3, sinh ngày 20/10/1959; trú tại: Thôn A, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 00 ngày 14/11/2021, Ngô Thị T cùng bà Văn Thị B (sinh năm 1958; trú thôn N, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam) và bà Bùi Thị Xuân S (sinh năm 1957; trú Tổ 20, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng) đến nhà bà Trần Thị Xuân T3 (sinh năm: 1959, trú thôn A, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam). Tại đây, trong lúc ngồi nói chuyện với nhau, bà Bùi Thị Xuân S có nói với 03 người còn lại “làm mấy ván bài tiến lên, đi ăn tối rồi về ngủ” thì bà B, bà T3 và T cùng đồng ý. Bà T3 đem ra 02 bộ bài Tây loại bài 52 lá (02 bộ bài Tây này có sẵn ở nhà vì trước đây có các em học sinh ở lại nhà bà T3 mua về để đánh bài quỳ), rồi 04 người cùng ngồi trên nền gạch men ngay tại phòng khách của nhà bà T3 để đánh bài “Tiến lên” được thua bằng tiền. Mức tiền thắng, thua trong mỗi ván bài như sau: người thắng nhất (là người hết bài trên tay sớm nhất) được 20.000 đồng của người thua nhất (là người còn bài trên tay khi ba người cùng chơi đã đánh hết bài); người thắng nhì (là người hết bài trên tay sớm thứ hai) được 10.000 đồng của người thua nhì (là người hết bài trên tay sớm thứ ba); ngoài ra, trong mỗi ván bài còn quy định bắt “Tứ quý” (là một bộ gồm 04 lá bài có cùng một giá trị, ví dụ 4 quân 7 gọi là tứ quý 7), “Thối heo” (là người thua nhất vẫn còn “lá 2” trên tay) thì được tính theo “Heo đen” (lá 2 màu đen, gồm: 2 chuồn và 2 bích), “Heo đỏ” (lá 2 màu đỏ, gồm: 2 rô và 2 cơ), trong đó “Heo đen” thì thắng thua 10.000 đồng, “Heo đỏ” thì thắng thua 20.000 đồng.

Trong khoảng thời gian từ 18 giờ 10 phút đến 18 giờ 40 phút ngày 14/11/2021, Ngô Thị T cùng bà Văn Thị B, bà Trần Thị Xuân T3 và bà Bùi Thị Xuân S ngồi tại nhà bà Trần Thị Xuân T3 đánh liên tục được khoảng 08 ván bài. Bà S đánh thắng được 30.000 đồng, bà B đánh thua 30.000 đồng, còn bà T3 và T thì đánh hòa tiền. Trong quá trình đánh bài, cả bốn người đều để tiền trên nền gạch men ngay vị trí ngồi của mình. Khi bà B đang chia bài để đánh ván tiếp theo thì bị Tổ công tác Công an thị trấn P kiểm tra, phát hiện, lập biên bản vụ việc và tạm giữ số tiền 870.000 đồng (trong đó: Ngô Thị T có 330.000 đồng, bà Trần Thị Xuân T3 có 120.000 đồng, bà Văn Thị B có 180.000 đồng và bà Bùi Thị Xuân S có 240.000 đồng) và 02 bộ bài Tây loại bài 52 lá.

Qua lấy lời khai, hỏi cung bị can Ngô Thị T và lấy lời khai của các bà: Trần Thị Xuân T3, Văn Thị B và Bùi Thị Xuân S đều xác định tổng số tiền mang theo để sử dụng vào mục đích đánh bạc là 870.000 đồng và đều được 04 người để trên nền gạch ngay vị trí ngồi của mỗi người. Riêng Ngô Thị T, trước đó vào ngày 03/02/2021, Công an thị trấn P, huyện Đ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng phạt tiền 1.500.000 đồng đối với T về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

Vật chứng tạm giữ được bao gồm:

- Tiền ngân hàng Việt Nam: 870.000 đồng (trong đó: 330.000 đồng của Ngô Thị T, 120.000 đồng của bà Trần Thị Xuân T3, 180.000 đồng của bà Văn Thị B, 240.000 đồng của bà Bùi Thị Xuân S);

- 02 bộ bài Tây loại 52 lá (hai bộ bài đã qua sử dụng).

Tại bản Cáo trạng số: 02/CT- VKSĐG-HS ngày 09/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) huyện Đ truy tố bị cáo Ngô Thị T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, qua phần xét hỏi và tranh luận, trên cơ sở đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS; xử phạt bị cáo Ngô Thị T từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ, xử phạt bổ sung bằng hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Về vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên:

- Tịch thu số tiền dùng vào việc phạm tội để nộp ngân sách nhà nước: 870.000 đồng (trong đó: 330.000 đồng của Ngô Thị T, 120.000 đồng của bà Trần Thị Xuân T3, 180.000 đồng của bà Văn Thị B, 240.000 đồng của bà Bùi Thị Xuân S);

- Tịch thu tiêu hủy đồ vật liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng:

02 bộ bài Tây loại 52 lá (hai bộ bài đã qua sử dụng).

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Ngô Thị T đã khai nhận: Khoảng 18 giờ 00 ngày 14/11/2021, Ngô Thị T và các bà: Văn Thị B và Bùi Thị Xuân S đến nhà bà Trần Thị Xuân T3 tại thôn A , thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. Trong lúc ngồi nói chuyện với nhau, bà S rủ bà B, bà T3 và T đánh bài. Bà T3 đem ra 02 bộ bài Tây loại bài 52 lá, rồi cả bốn người ngồi trên nền gạch men ngay tại phòng khách của nhà bà T3 để đánh bài “Tiến lên” được thua bằng tiền. Trong khoảng thời gian từ 18 giờ 10 phút đến 18 giờ 40 phút ngày 14/11/2021, Ngô Thị T cùng bà Văn Thị B, bà Trần Thị Xuân T3 và bà Bùi Thị Xuân S đánh liên tục được khoảng 08 ván bài. Khi bà B đang chia bài để đánh ván tiếp theo thì bị Tổ công tác Công an thị trấn P kiểm tra, phát hiện, lập biên bản thu giữ số tiền đánh bạc 870.000 đồng và 02 bộ bài Tây loại bài 52 lá. Riêng Ngô Thị T, vào ngày 03/02/2021, Công an thị trấn P, huyện Đ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng phạt tiền đối với Ngô Thị T về hành vi “Đánh bạc trái phép”.

Xét lời khai nhận nêu trên của bị cáo Ngô Thị T phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Ngô Thị T đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS, như Cáo trạng của VKSND huyện Đ truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo: Đánh bạc là một tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi gia đình và gây mất ổn định trật tự xã hội. Do vậy, mọi hành vi đánh bạc đều phải được ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh. Bị cáo biết rõ hành vi đánh bạc trái phép bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn bất chấp quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội, xâm phạm trật tự công cộng. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tiền án, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu và có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 36 Bộ luật Hình sự áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo. Bị cáo có thu nhập không ổn định nên miễn việc khấu trừ thu nhập.

Áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là cần thiết.

[4] Đối với các bà: Văn Thị B, Bùi Thị Xuân S và Trần Thị Xuân T3 có hành vi tham gia đánh bạc tại nhà bà T3 đã bị Ủy ban nhân dân huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là phù hợp.

[5] Về vật chứng:

Đối với số tiền 870.000 đồng mà bị cáo cùng các đối tượng dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 02 bộ bài Tây loại 52 lá mà bị cáo cùng các đối tượng dùng làm công cụ để đánh bạc không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Thị T phạm tội “Đánh bạc” Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Ngô Thị T 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; gia đình của bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo; trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật Thi hành án hình sự Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng cho bị cáo.

Phạt bổ sung bị cáo Ngô Thị T số tiền: 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 870.000 đồng (trong đó: 330.000 đồng của Ngô Thị T, 120.000 đồng của bà Trần Thị Xuân T3, 180.000 đồng của bà Văn Thị B, 240.000 đồng của bà Bùi Thị Xuân S). (Số tiền trên hiện đang tạm giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ) - Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài Tây loại 52 lá. (02 bộ bài hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 06/4/2022).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ngô Thị T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Giang - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về