TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 03/2024/HS-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 265/2023/TLPT-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023. Do Bản án sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh H bị kháng cáo.
* Các bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Lê Văn H, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1991 tại phường X, thị xã N, tỉnh H.
Nơi cư trú: Tổ dân phố V, phường X, thị xã N, tỉnh H.
Nơi ở hiện tại: Tổ dân phố I, thị trấn C, huyện C, tỉnh G; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T (đã chết); Con bà Nguyễn Thị V (1969); Có vợ: Đào Nữ Thục U (SN 1999); Vó 01 con (SN 2021); Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 19/4/2018, bị Công an huyện T (nay là Công an thị xã N) xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích; Ngày 18/5/2018, bị Công an huyện T (nay là Công an thị xã N) xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích; Ngày 02/10/2020, bị Công an huyện C, tỉnh G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản; Ngày 04/12/2020, bị Công an thị xã N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 đến ngày 06/4/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” (có mặt).
2. Họ và tên: Vũ Trọng Đ, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1984, tại phường N, thị xã N, tỉnh H.
Nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường N, thị xã N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Trọng P (đã chết); Con bà Vũ Thị T1 (SN 1960); Có vợ Lê Thị H1 (SN 1986); Có 03 con (lớn nhất SN 2009, nhỏ nhất SN 2018); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 đến ngày 28/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” (có mặt).
3. Họ và tên: Nguyễn Đức T2, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1992, tại phường N, thị xã N, tỉnh H.
Nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường N, thị xã N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình N (SN 1957); Con bà Nguyễn Thị D (SN 1958); Có vợ là: Nguyễn Thị Lan A (SN 2000); Có 02 con (con lớn SN 2021, con nhỏ SN 2023); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2021 đến ngày 28/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” (có mặt).
4. Họ và tên: Phan Minh C, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1972, tại xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam.
Nơi cư trú: SN D, đường C, tổ dân phố I, thị trấn C, huyện C, tỉnh G; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Minh T3 (đã chết); Con bà Nguyễn Thị T4 (SN 1934); Có vợ là Ngô Thị Bạch H2 (SN 1982); Có 03 con (lớn nhất SN2000, nhỏ nhất SN2016); Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 08/3/2021, bị Công an huyện C, tỉnh G xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi “đánh bạc”; Nhân thân: Ngày 10/9/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh G xử phạt 14 tháng tù cho hưởng án treo về tội “đánh bạc”; Bị bắt tạm giam từ ngày 15/9/2022 đến ngày 07/4/2023 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” (có mặt).
5. Họ và tên: Nguyễn Văn T5, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1983, tại xã H, thị xã N, tỉnh H.
Nơi cư trú: Tiểu khu A, phường H, thị xã N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C1 (đã chết); Con bà Nguyễn Thị T6 (SN 1946); Có vợ là Vũ Thị VI (SN 1990); Có 02 con (lớn nhất SN 2012, nhỏ nhất SN 2017); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 đến ngày 28/01/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” (có mặt).
6. Họ và tên: Nguyễn Quốc V2, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1984 tại xã B, huyện B, tỉnh Q.
Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn H3 (SN 1950); Con bà Nguyễn Thị L (SN 1952); Có vợ là Nguyễn Thị N1 (SN 1985); Có 03 con (lớn nhất SN 2011, nhỏ nhất SN 2020); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
7. Họ và tên: Nguyễn Triệu Đ1, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1993 tại xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: SN A, đường H, tổ dân phố F, thị trấn C, huyện C, tỉnh G; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T7 (SN 1961); Con bà Triệu Thị D1 (SN 1964); Có vợ là Nguyễn Thị Kim T8 (SN 1993); Có 02 con (lớn nhất SN2019, nhỏ nhất SN2021); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
8. Họ và tên: Nguyễn Văn T9, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1985, tại phường N, thị xã N, tỉnh H.
Nơi cư trú: Tổ dân phố X, phường H, thị xã N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T10 (SN 1955); Con bà Lê Thị H4 (SN 1958); Có vợ là: Nguyễn Thị N2 (SN 1987); Có 02 con (lớn nhất SN 2011, nhỏ nhất SN 2017); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 02/01/2022 áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời gian từ ngày 14/12/2021 đến ngày 27/12/2021, Lê Văn H (SN 1991, trú tại tổ dân phố I, thị trấn C, huyện C, tỉnh G) quản lý và sử dụng tài khoản tổng cá độ bóng đá, sau đó tạo lập thành nhiều tài khoản nhỏ cung cấp cho một số đối tượng khác tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá, cụ thể như sau:
1. Hành vi tổ chức đánh bạc của Lê Văn H, Lê Trọng H5, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2 và Phan Minh C: Vào khoảng giữa tháng 12 năm 2021, Lê Văn H sử dụng số điện thoại 0866.033.xxx liên lạc với số điện thoại 0325.467.xxx của một người tên là T11, ở tỉnh Thừa Thiên Huế qua ứng dụng Telegram và được T11 cung cấp tài khoản tổng cá độ bóng đá (tài khoản Master), có ký hiệu là NHC329 để truy cập vào website www.Keochinh.com, vào trang quản trị, vào đường L, sau đó vào trang Web: Wabi88.com để tổ chức đánh bạc. H và T11 thống nhất đơn vị tính tiền ảo trong tài khoản là đô, giá trị tiền ảo mỗi 1 đô tương ứng với 10.000đ; thời điểm tính toán thắng thua và thanh toán tiền cho nhau vào thứ 2 hàng tuần.
Sau khi có được tài khoản Master ký hiệu NHC329 trên, H đã tạo lập thành nhiều tài khoản nhỏ (tài khoản A1) để cung cấp cho các đối tượng khác tổ chức đánh bạc bằng cách tiếp tục tạo lập thêm các tài khoản nhỏ hơn (tài khoản Member) để tham gia cá độ bóng đá hoặc trực tiếp đăng nhập vào tài khoản member để thực hiện hành vi cá độ bóng đá. H và các đối tượng này thoả thuận tính giá trị tiền ảo khi thanh toán là 1 đô tương ứng từ 15.000đ đến 40.000đ, tùy vào từng tài khoản; thời điểm tính toán thắng thua và thanh toán tiền cho nhau vào thứ 2 hàng tuần. Tiền thắng thua là tổng số tiền thắng, số tiền thua thực tế trong tài khoản khi đặt cược theo số liệu trên hệ thống của từng tài khoản và 4,5 lần tiền hoa hồng có được khi đặt cược (tiền hoa hồng tương ứng bằng 0,25% của số tiền đã đặt cược đối với các kèo thắng thua cả tiền; 0,25% của nửa số tiền đã đặt cược đối với các kèo thắng thua nửa tiền và bằng 0 đối với kèo hòa và từ chối). Số liệu được làm tròn đến chữ số thập phân thứ 2. Quá trình thanh toán có thể thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt hoặc thanh toán qua tài khoản ngân hàng. Sau khi nhận được tài khoản tổng cá độ bóng đá nêu trên, Lê Văn H đã tạo lập 04 tài khoản Agent, gồm: NHC32900, NHC32901, NHC32902, NHC32909 từ tài khoản Master NHC329 rồi cung cấp cho các đối tượng tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Cụ thể như sau:
- Lê Văn H cung cấp cho Vũ Trọng Đ (SN 1984), trú tại tổ dân phố N, phường N, thị xã N tài khoản Agent NHC32900, thỏa thuận tính giá trị tiền ảo 1 đô tương ứng với 30.000đ và tài khoản Agent NHC32902, thỏa thuận tính giá trị tiền ảo 1 đô tương ứng với 15.000đ. Sau khi nhận được các tài khoản trên, Đ đã tạo lập thành các tài khoản Member để trực tiếp đánh bạc và giao cho Nguyễn Đức T2 (SN 1992), ở cùng tổ dân phố quản lý và cung cấp cho Nguyễn Văn T5 (SN 1983, trú tại tiểu khu A, phường H, thị xã N đánh bạc, trong đó:
+ Tài khoản Agent NHC32900 sử dụng từ ngày 15 đến ngày 20/12/2021 đã tạo lập thành 6 tài khoản Member, gồm: NHC32900000, NHC32900001, NHC32900004, NHC32900005, NHC32900006, NHC32900007; Đại trực tiếp sử dụng các tài khoản NHC32900000, NHC32900001, NHC32900004 để đánh bạc, các tài khoản còn lại Đ giao cho T2 quản lý và cung cấp cho T5 đánh bạc.
+ Tài khoản Agent NHC32902 sử dụng từ ngày 21 đến ngày 27/12/2021 đã tạo lập thành 8 tài khoản Member, gồm: NHC32902000, NHC32902001, NHC32902002, NHC32902003, NHC32902005, NHC32902006, NHC32902007, NHC32902009; Đại trực tiếp sử dụng các tài khoản NHC32902001, NHC32902002, NHC32902007 để đánh bạc, các tài khoản còn lại Đ giao cho T2 quản lý và cung cấp cho T5 đánh bạc.
- Lê Văn H cung cấp cho Phan Minh c (SN 1972), trú tại thị trấn C, huyện C, tỉnh G tài khoản NHC32901, thỏa thuận tính giá trị tiền ảo 1 đô tương ứng 40.000đ. Sau khi nhận được tài khoản trên, C đã tạo lập tài khoản Member NHC32901000, rồi cung cấp cho Nguyễn Quốc V2 (Tên thường gọi là Q, SN1984, trú tại thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Q) và Nguyễn Triệu ĐI (SN 1993), trú tại tổ dân phố F, thị trấn C, huyện C, tỉnh G sử dụng để đánh bạc từ ngày 21 đến ngày 26/12/2021.
- Riêng tài khoản Agent NHC32909, Lê Văn H đã tạo lập thành 3 tài khoản Member, gom: NHC32909000, NHC32909001, NHC32909002 trực tiếp sử dụng để đánh bạc từ ngày 15 đến ngày 26/12/2021. Quá trình điều tra xác định, trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến ngày 27/12/2021:
- Lê Văn H đã tổ chức cá độ bóng đá 335 trận với tổng số tiền cá độ là 34.554.111.950đ. Trong đó có 329 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ trở lên với tổng số tiền 34.551.044.650đ. Tổng số tiền H thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc là 3.601.299.600đ.
- Vũ Trọng Đ và Nguyễn Đức T2 đã tổ chức cá độ 267 trận, với tổng số tiền cá độ là 14.207.462.700đ. Trong đó có 257 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ trở lên, với tổng số tiền là 14.201.412.600đ. Trong các lần tổ chức đánh bạc này, do có quan hệ họ hàng với T5 nên Đ không lấy tiền hoa hồng mà cho T5 được hưởng 4 lần tiền hoa hồng, còn T2 được hưởng 0,5 lần tiền hoa hồng; số tiền T2 thu lợi bất chính là 10.936.350đ.
- Phan Minh C đã tổ chức cá độ 07 trận với tổng số tiền cá độ là 119.309.000đ. Trong đó có 06 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ trở lên, với tổng số tiền là 118.903.600đ. Quá trình điều tra không chứng minh được c thu lợi bất chính từ việc tổ chức cho V2 và Đ1 đánh bạc.
Cũng trong quá trình điều tra còn xác định, Lê Trọng H5 (SN 1986), trú tại tổ dân phố V, phường X, thị xã N - Là quản lý quán B3-a 79 của Lê Văn H ở phường N còn có hành vi giúp sức cho H trong việc thanh toán tiền cá độ bóng đá, cụ thể: Ngày 20/12/2021, H nhờ H5 trả cho Vũ Trọng Đại số tiền cá độ 541.100.000đ; tiếp đó vào ngày 27/12/2021, H nhờ H5 lấy từ Đại số tiền cá độ 46.000.000đ. Số tiền này H5 không lấy trực tiếp từ Đ, mà lấy từ Lê Danh N3 (SN 1996), trú tại tổ dân phố V, phường N, thị xã N, tỉnh H, là người được Đ nhờ giao tiền; số tiền này H5 chưa đưa lại cho H.
2. Hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá của Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Văn T5, Lê Trọng L1, Nguyên Quốc V2 và Nguyên Triệu Đ1: Ngoài hành vi tổ chức đánh bạc như đã nêu trên, quá trình điều tra còn xác định Lê Văn H, Vũ Trọng Đ còn trực tiếp sử dụng các tài khoản Member đã tạo lập để đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá và các đối tượng Nguyễn Văn T5, Lê Trọng L1, Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu Đ1 tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức cá độ bóng đá, cụ thể như sau:
Về cách thức chơi và quy ước, thỏa thuận tính thắng thua: Người chơi sử dụng máy vi tính, laptop, smartphone có kết nối mạng Internet, truy cập vào trang website http://www.keochinh.com http://www.wabi88.com http://www.viva88.net http://www1popop.com http://www.bong888.org http://www.bong88.com http://www.2bong.com http://www.mb.b8ag.com rồi sử dụng tài khoản và mật khẩu của mình để đăng nhập. Sau đó, người chơi chọn kèo cá độ, như “Tài/Xỉu”, “Cược chấp”, “1x2”. Kèo “Tài/Xỉu”, là cá cược trên tổng số bàn thắng, thẻ phạt, phạt góc... của 2 đội bóng trong hiệp, trong cả trận đấu hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu đặt kèo T12 mà tỷ số bàn thắng, thẻ phạt, phạt góc... khi kết thúc hiệp đấu hoặc trận đấu hoặc trong một khoảng thời gian nhất định lớn hơn con số quy ước đã đưa ra thì người chơi thắng, ngược lại người chơi sẽ thua. Nếu đặt kèo Xỉu mà tổng số bàn thắng, thẻ phạt, phạt góc... sau khi kết thúc hiệp hoặc trận đấu trong một khoảng thời gian nhất định nhỏ hơn quy ước thì người chơi thắng, ngược lại người chơi sẽ thua. Kèo “Cược chấp”, là đặt cược theo đội thắng và đội thua, có thể tính theo hiệp hoặc cả trận đấu hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. Kèo “1x2”, là kèo đặt tỉ số trận đấu gồm: H6, T, T13 trong 1 hiệp đấu hoặc cả trận đấu hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu người chơi đặt cược bao nhiêu điểm, thì khi thắng sẽ được cộng trực tiếp vào tài khoản, còn nếu thua thì bị trừ số điểm tương ứng theo tỷ lệ ăn thua. Những người tham gia cá độ sẽ dựa trên số điểm trên tài khoản để tính ra tiền. Khi người chơi tham gia cá độ dù thắng hay thua đều được hưởng tiền hoa hồng tương ứng 0,25% số điẻm bỏ ra cá độ (Chỉ những trận thắng hoặc thua mới được hưởng tiền hoa hồng). Tiền đánh bạc được tính làm tròn đến chữ số thập phân thứ 2.
Quá trình điều tra xác định số trận và số tiền mà Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Văn T5, Lê Trọng Lì, Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu Đ1 tham gia cá độ bóng đá như sau:
- Lê Văn H trong thời gian từ ngày 15 đến ngày 26/12/2021 đã tham gia cá độ bóng đá 63 trận với tổng số tiền là 1.391.970.450đ. Trong đó có 31 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 405.223.500đ và có 06 trận, số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền là 934.743.850đ. Tổng số tiền H thắng là 151.997.850đ.
- Vũ Trọng Đ trong thời gian từ ngày 15 đến ngày 27/12/2021 đã tham gia cá độ bóng đá 141 trận với tổng số tiền 20.227.340.250đ. Trong đó có 131 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 1.351.333.350đ; 100 trận, số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền 18.876.006.900đ. Tổng số tiền Đại thắng là 3.598.717.800đ.
- Nguyễn Văn T5 trong thời gian từ ngày 15 đến ngày 26/12/2021 đã tham gia cá độ bóng đá 267 trận với tổng số tiền 14.207.462.700đ. Trong đó có 159 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 4.163.812.350đ; 98 trận, số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền 10.037.600.250đ. Tổng số tiền T5 thắng là 2.207.159.100đ.
Ngoài ra, trong ngày 26/12/2021 T5 còn cá độ bóng đá với Lê Trọng L1 (SN 1961), trú tại tiểu khu C, phường H, thị xã N, tỉnh H qua tin nhắn điện thoại 03 trận với tổng số tiền 38.960.000đ. Trong đó có 02 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 35.200.000đ. L1 thắng số tiền 17.200.000đ, T5 đã thanh toán hết cho L1.
- Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 trong thời gian từ ngày 21 đến ngày 26/12/2021 đã cùng nhau tham gia cá độ bóng đá 07 trận với tổng số tiền 119.309.000đ. Trong đó có 06 trận, số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 118.903.600đ. V2 và Đ1 thắng số tiền 38.565.200đ.
3. Hành vi đánh bạc của Vũ Trọng Đ, Nguyên Đức T2, Văn Huy H7 và Nguyên Văn T9 dưới hình thức mua bán số lô, số đề: Ngoài hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá nêu trên, thì Vũ Trọng Đ và Nguyễn Đức T2 còn có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Nguyễn Văn T9 (SN 1985) và Văn Huy H7 (SN 1980), đều trú tại phường H, thị xã N). Cụ thể như sau:
Nguyễn Đức T2 trực tiếp đứng ra bán các số lô, số đề cho Nguyễn Văn T9 hàng ngày giúp cho Vũ Trọng Đ, sau đó tổng hợp bảng lô đề đã bán chuyển lại cho Đại để tính thắng, thua, về phương thức chơi, giữa Đ, T2, T9 và H7 thỏa thuận, quy ước với nhau, lấy kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày để xác định thắng thua, số đề, số lô được quy ước là số tự nhiên có hai chữ số (tính từ 00 đến 99), người chơi có thể mua một hoặc nhiều số khác nhau, Đ, T2 thỏa thuận T9 chỉ phải trả 73% và H7 phải trả 80% số tiền mua thực tế các số lô, số đề. Số trúng đề là số trùng với hai số cuối giải đặc biệt của xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày; tỷ lệ ăn thua 1 ăn 70 lần. số lô được tính theo điểm mua của mỗi số, mỗi điểm lô tương ứng với số tiền mua là 21.800đ hoặc 22.000đ; số trúng lô là số trùng với hai số cuối bất kỳ các giải (27 giải) của xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày; tỷ lệ ăn thua 1 điểm lô được 80.000đ. Nếu thua người chơi sẽ mất số tiền đã đánh. Ngoài ra Đ, T2 còn thỏa thuận với người chơi về tính thắng thua trong trường hợp trúng ba càng, lô xiên.
Quá trình điều tra xác định, trong các ngày 25, 26 và 27/12/2022, Đ và T2 đã đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Nguyễn Vãn T9 và Văn Huy H7, cụ thể như sau:
- Ngày 25/12/2022, T2 bán cho T9 21 số đề với số tiền 1.050.000đ; 10 số lô, tổng 100 điểm với số tiền 2.180.000đ, sau đó tổng hợp bảng lô đề đã bán chuyển lại cho Đại để tính thắng, thua (Toàn bộ số đề, số lô này là T9 mua giúp cho H7). Trong ngày H7 trúng 10 điềm lô được số tiền 800.000đ. Tổng số tiền đánh bạc ngày 25/12/2022 được xác định là 4.030.000đ.
- Ngày 26/12/2022, T2 bán cho T9 40 số đề với số tiền 3.000.000đ; 12 số lô, tổng 240 điểm với số tiền 5.232.000đ, sau đó tổng hợp bảng lô đề đã bán chuyển lại cho Đại để tính thắng, thua (Toàn bộ số đề, số lô này là T9 mua giúp cho H7). Trong ngày H7 trúng 60 điểm lô được số tiền 4.800.000đ. Tổng số tiền đánh bạc ngày 26/12/2022 được xác định là 13.032.000đ.
- Ngày 27/12/2022, T2 bán cho Nguyễn Văn T9 92 số đề với số tiền 5.000.000đ; 01 số ba càng với số tiền là 50.000đ; 15 số lô, tổng 270 điểm với số tiền 5.886.000đ (Trong đó, T9 mua giúp H7 43 số đề với số tiền 3.250.000đ; 12 số lô, tổng 240 điểm với số tiền 5.280.000đ), sau đó T2 tổng hợp bảng lô đề đã bán chuyển lại cho Đại để tính thắng, thua. Trong ngày, T9 trúng 20 điểm lô được số tiền 1.600.000đ; H7 trúng 140 điểm lô được số tiền 11.200.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của Đ, T2, Tới ngày 27/12/2022 được xác định là 23.736.000đ; số tiền đánh bạc của H7 là 19.730.000đ.
Như vậy, trong các ngày 25, 26 và 27/12/2022, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T9 và Văn Huy H7 đã 03 lần đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề. Trong đó, có 02 lần số tiền đánh bạc từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ; tổng số tiền đánh bạc 02 lần này của Đ, T2, T9 là 36.768.000đ; của H7 là 32.810.000đ. số tiền đánh bạc các ngày 25 và 26/12/2021 các bị cáo đã thanh toán cho nhau; riêng số tiền đánh bạc ngày 27/12/2022, các bị cáo chưa thanh toán, về phần T9 mua số lô, số đề giúp H7 đã thu lợi bất chính 532.500đ.
* Về công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc, quá trình điều tra xác định:
Lê Văn H sử dụng 03 chiếc điện thoại di động (gồm 01 chiếc Iphone 12 Pro, màu Gold, lắp sim số 0989.085.xxx, I điện thoại: 356698111979986; 01 chiếc Nokia, màu đen, lắp sim số 0865.087.xxx; 01 chiếc Iphone 6, màu bạc lắp sim số 0866.033.xxx) và chiếc máy tính cây nhãn hiệu U-TEK, màu đen kèm theo màn hình nhãn hiệu LG, màu đen, Model: 2447VQ; Lê Trọng H5 sử dụng chiếc điện thoại di động Iphone 7, màu vàng lắp sim số 0972.680.xxx; Vũ Trọng Đ sử dụng chiếc điện thoại Iphone X, màu trắng, lắp sim số 0971.696.753; Nguyễn Đức T2 sử dụng 02 chiếc điện thoại di động (gồm 01 chiếc Iphone 6, màu đen lắp sim số 0967.518.xxx; 01 chiếc Iphone 6, màu G (Đ và T2 dùng chung) lắp sim số 0983.472.xxx) và sử dụng tài khoản Telegram đăng ký số điện thoại 0971.696.xxxx. Sau đó T2 đã vứt bỏ sim số 0983.472.xxx và dùng sim số 0978.698.xxx mới thay thế; Nguyễn Văn T5 sử dụng chiếc máy tính bảng Galaxy Tab A7Lite kết nối với w tại nhà tên “Café H”, mật khẩu “66668888” để đăng nhập các tài khoản và trực tiếp tham gia cá độ các trận bóng đá. Sử dụng các số điện thoại 0962220xxx, 0969263xxx, 0848797xxx, 0941121780, 0969909xxx, 0865981xxx để liên lạc khi tham gia cá độ bóng đá; Lê Trọng L1 sử dụng chiếc điện thoại di động Iphone X, màu trắng lắp sim số 0982299398; Phan Minh C sử dụng chiếc điện thoại N4, lắp sim số 0xxx.233.757 và 0359.021.xxx; Nguyễn Quốc V2 sử dụng chiếc điện thoại di động Iphone 12 Pro, màu vàng đồng lắp sim số 0973255xxx; Nguyễn Triệu Đ1 sử dụng điện thoại di động Iphone X, màu trắng, lắp sim số 0866022xxx; Văn Huy H7 sử dụng chiếc điện thoại di động S1 J7 Pro màu vàng lắp sim số 0868.260.xxx và Nguyễn Văn T9 sử dụng chiếc điện thoại di động VIVO Y20, màu xanh trắng, có lắp sim số: 0392.789.xxx và 0338.969.xxxx
* Các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:
Đối với người đàn ông tên T11 ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã cung cấp tài khoản tổng cá độ bóng đá có ký hiệu là NHC329 cho H, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh, làm rõ về đối tượng này để xử lý nhưng chưa xác định được, về nội dung này, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.
Quá trình điều tra, Lê Văn H khai, ngoài tài khoản Master NHC329 do người có tên T11 cung cấp, thì H còn được một đối tượng tên T14 ở TP tỉnh Bình Định cung cấp 02 tài khoản Master K7S03 và J1S07 để tổ chức đánh bạc. Cơ quan Điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng do hệ thống quản lý, đăng nhập các tài khoản Master này đã bị đóng, nên không đăng nhập và không thu thập được các dữ liệu liên quan đến hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc Lê Văn H và những đối tượng có liên quan, do đó không có căn cứ để xử lý.
Cũng trong quá trình điều tra, Lê Văn H còn khai báo thêm một số đối tượng khác được H cung cấp tài khoản Agent để tổ chức đánh bạc và đánh bạc, như Hiếu H8 (ở tiểu khu C, phường H, thị xã N); Việt công tác tại Công an huyện c, tỉnh G; người giới thiệu là em của Lê Ngọc Đ2 (SN 1985, trú tại tổ dân phố N, phường H, thị xã N) và một người tên T15, là người quen của Lê Trọng H5. Cơ quan Điều ra đã tiến hành xác minh, xác định:
- Người có tên H9 H8 là Vũ Quang H10 (SN 1986, trú tại tiểu khu C, phường H, thị xã N, tỉnh H). Tuy nhiên, H khai người giới thiệu là H10, H chưa gặp trực tiếp và cả hai cũng chưa thanh toán tiền cho nhau; về phần H10 không thừa nhận việc tham gia các độ bóng đá. Vì vậy không có căn cứ xử lý đối với Vũ Quang H10.
- Đối với người tên V2, qua xác minh, xác định thời điểm xảy ra vụ án, tại Đội Quản lý hành chính về TTXH Công an huyện c, tỉnh G có một người tên là Hoàng Quốc V3. Tuy nhiên, anh V3 không thừa nhận tham gia cá độ bóng đá nên không đủ căn cứ để xử lý.
- Đối với người giới thiệu là em của Đại Gl, tức Lê Ngọc Đ2 (SN 1985, trú tại tổ dân phố N, phường H, thị xã N), quá trình điều tra, Lê Văn H khai người giới thiệu là em của Đại Gl, nhưng không nói cụ thể là ai, ở đâu; về phần Đ2 khai không biết có người em nào đã lấy tài khoản của Lê Văn H để tham gia cá độ bóng đá. Vì vậy không có căn cứ để xử lý.
- Đối với người giới thiệu tên T15 là người quen của Lê Trọng H5, Lê Văn H khai người này chỉ giới thiệu là tên TI5, người quen của H5, còn không biết danh tính, địa chỉ cụ thể; về phần H5 cũng khai không biết người nào tên T15 nên không có căn cứ để xác minh, xử lý.
- Đối với Lê Danh N3, là người được Vũ Trọng Đ nhờ đưa tiền cá độ bóng đá cho Lê Văn H, qua Lê Trọng H5 và lấy tiền thắng lô đề từ Nguyễn Văn T9. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định, khi nhờ N3 thanh toán tiền, Đ không nói rõ là tiền gì, nên N3 không biết tiền Đ nhờ thanh toán là tiền liên quan đến hoạt động tổ chức đánh bạc và đánh bạc, nên N3 không đồng phạm với Đ.
* Tại Bản án sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh H đã tuyên các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ và Nguyễn Đức T2 phạm “Tội tổ chức đánh bạc” và “Tội đánh bạc”, Phan Minh C phạm “Tội tổ chức đánh bạc”; Nguyễn Văn T5, Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu Đ1 và Nguyễn Văn T9 phạm “Tội đánh bạc”.
Căn cứ điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 322 và điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS). Xử phạt Lê Văn H 08 (T16) năm tù về tội tổ chức đánh bạc và 03 (Ba) năm 06 (S) tháng tù về tội đánh bạc. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 11 (Mười một) năm 06 (S) tháng tù. Phạt bổ 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) về tội tổ chức đánh bạc và 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) về tội đánh bạc. Tổng cộng là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).
Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322 và điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Vũ Trọng Đ 06 (Sáu) năm về tội tổ chức đánh bạc và 04 (B) năm tù về tội đánh bạc. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Đ phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 10 (M) năm tù. Phạt bổ sung 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) về tội tổ chức đánh bạc và 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) về tội đánh bạc. Tổng cộng là 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng).
Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322 và khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Nguyễn Đức T2 07 (B1) năm tù về “Tội tổ chức đánh bạc” và 01 (Một) năm tù về “Tội đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo T2 phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (T16) năm tù. Phạt bổ sung Nguyễn Đức T2 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) về “Tội tổ chức đánh bạc”.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 322; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Phan Minh C 05 (Năm) năm tù. Phạt bổ sung Phan Minh C 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
Căn cứ điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Nguyễn Văn T5 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Phạt bổ sung Nguyễn Văn T5 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 58 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Nguyễn Quốc V2 03 (Ba) năm tù. Xử phạt Nguyễn Triệu Đ1 03 (Ba) năm tù và căn cứ khoản 1 Điều 321; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58 và Điều 38 BLHS. Xử phạt Nguyễn Văn T9 09 (Chín) tháng tù.
Thời gian tạm giữ, tạm giam của các bị cáo được trừ vào thời gian chấp hành án. Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt tù, hình phạt bổ sung đối với các bị cáo khác không có kháng cáo, xử lý vật chứng, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
* Trong hạn kháng cáo, các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Phan Minh c và Nguyễn Văn T5 đều có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu ĐI và Nguyễn Văn T9 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo có mặt và các bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của Bản án sơ thẩm đã tuyên.
Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh H sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân, hành vi phạm tội của các bị cáo cũng như tình tiết mới được bổ sung tại phiên tòa đã đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T9, giữ nguyên mức hình phạt và cho được hưởng án treo. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2 và Nguyễn Văn T5, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo H tội “Tổ chức đánh bạc” từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai bốn) tháng và tội “Đánh bạc” từ 02 (hai) tháng đến 03 (ba) tháng; giảm cho bị cáo Đại tội “Tổ chức đánh bạc” từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng và tội “Đánh bạc” từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng; giảm cho bị cáo T2 tội “Tổ chức đánh bạc” từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng và tội “Đánh bạc” từ 02 (hai) tháng đến 03 (ba) tháng và đề nghị giảm cho bị cáo T5 từ 02 (hai) tháng đến 03 (ba) tháng. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Minh C, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1, giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên được coi là hợp pháp. Do vậy, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận đơn của các bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu ĐI vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt và không ảnh hưởng đến việc xét xử nên không có cơ sở để hoãn phiên tòa. Do đó, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 BLTTHS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các bị cáo.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội như sau: Trong khoảng thời gian từ ngày 14 đến ngày 27/12/2021, Lê Văn H, Lê Trọng H5, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2 và Phan Minh c đã tổ chức cho Nguyễn Văn T5, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng Internet. Đồng thời H và Đ cũng trực tiếp tham gia cá độ bóng đá, cụ thể: Lê Văn H đã tổ chức cá độ bóng đá 329 trận với tổng số tiền 34.551.044.650đ, thu lợi bất chính số tiền 3.601.299.600đ và H còn trực tiếp tham gia cá độ 31 trận có số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 405.223.500đ và 06 trận có số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền 934.743.850đ. Vũ Trọng Đ và Nguyễn Đức T2 đã tổ chức cá độ bóng đá 257 trận với tổng số tiền là 14.201.412.600đ, qua đó T2 thu lợi bất chính 10.936.350đ. Ngoài ra, Đ còn tham gia cá độ bóng đá 131 trận có số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 1.351.333.350đ và 100 trận có số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền 18.876.006.900đ. Phan Minh C tổ chức cá độ bóng đá 06 trận với tổng số tiền 118.903.600đ. Lê Trọng H5 02 lần giúp sức cho Lê văn H11 trong việc thanh toán tiền cá độ bóng đá giữa H11 và Đ. Nguyễn Văn T5 tham gia cá độ bóng đá 161 trận có số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.0004đ với tổng số tiền 4.199.012.350đ và 98 trận có số tiền cá độ từ 50.000.000đ trở lên với tổng số tiền 10.037.600.250đ. Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 tham gia cá độ bóng đá 06 trận có số tiền cá độ từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ với tổng số tiền 118.903.600đ.
Ngoài hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá nêu trên, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2 và Nguyễn Văn T9 đã 02 lần thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề có số tiền đánh bạc mỗi lần từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của Đ, T2, T9 được xác định là 36.768.000đ.
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cấp phúc thẩm phù hợp với lời khai tại cấp sơ thẩm và phù hợp với lời khai của các bị cáo khác không kháng cáo, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ cơ sở kết luận Lê Văn H phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo điểm b, c khoản 2 Điều 322 và điểm b, c khoản 2 Điều 321 của BLHS; Vũ Trọng Đ phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 322 và điểm b, c khoản 2 Điều 321 của BLHS; Nguyễn Đức T2 phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 của BLHS; Phan Minh C phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 322 của BLHS; Nguyễn Văn T5 phạm tội “Đánh bạc” theo điểm b, c khoản 2 Điều 321 của BLHS; Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 phạm tội “Đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 321 của BLHS và Nguyễn Văn T9 phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của BLHS.
[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi nêu trên của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng trên địa bàn thị xã N, tỉnh H, vụ án có nhiều người tham gia với vai trò đồng phạm và có tính chất rất nghiêm trọng, số tiền các bị cáo tham gia đánh bạc lớn, dưới hình thức cá độ bóng đá và mua bán số lô, số đề, nhằm tước đoạt tiền bạc, tài sản của nhau, coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, xã hội tại địa phương. Hành vi của các bị cáo là đồng phạm với nhau về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”. Do đó cần được xử lý nghiêm để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt đối với các bị cáo như trên là có căn cứ pháp luật.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Phan Minh C, Nguyễn Văn T5 và kháng cáo xin được hưởng án treo của Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu Đ1 và Nguyễn Văn T9:
[4.1] Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo Lê Văn H năm 2018, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, năm 2020, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản và hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Bị cáo Phan Huy C2 năm 2008, bị xử phạt 14 tháng tù cho hưởng án treo về tội đánh bạc, năm 2021, bị Công an huyện C, tỉnh G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, các bị cáo: Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Văn T5 và Phan Minh c đã có thành tích giúp Cơ quan Công an phát hiện tội phạm, được Cơ quan Công an xác nhận, nên được được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS; Nguyễn Văn T9 có công cứu được cháu Hoàng Gia B2 khỏi bị đuối nước vào chiều 15/6/2022 và Vũ Trọng Đ có công cứu giúp cháu Phạm Văn P1 bị đuối nước vào chiều 24/5/2023, được gia đình các cháu và chính quyền địa phương xác nhận. Sau khi phạm tội, các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5 và Nguyễn Văn T9 đã “Đầu thú”; Do đó các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Lê Văn H, Vũ Trọng Đ và Nguyễn Văn T5 đã có thành tích trong công tác hỗ trợ phòng chống dịch Covid-19. Ngoài ra Vũ Trọng Đ còn ủng hộ tết vì người nghèo, và ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nên các bị cáo H, Đ và T5 được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Vũ Trọng Đ nộp tự nguyện nộp 20.000.000đ và Nguyễn Đức T2 tự nguyện nộp 10.936.350đ tiền thu lợi bất chính vào Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn. Do đó bị cáo Đ và T2 được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Nguyễn Quốc V4 và Nguyễn Triệu Đ1 tích cực tham gia phong trào đấu tranh phòng chống tội phạm, đã báo cho Công an phát hiện, xử lý tội phạm, có xác nhận của Công an cấp xã. Bố của Nguyễn Quốc V2 là người có công với cách mạng, được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất và được tặng Kỷ niệm chương chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày. Do đó được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Những tình tiết giảm nhẹ này cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp với quy định của pháp luật. Các bị cáo đánh bạc hai lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
[4.2] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại cấp phúc thẩm:
- Bị cáo Lê Văn H cung cấp thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới cụ thể: 01 giấy khen của Chủ tịch UBND huyện C, tỉnh G khen thưởng có thành tích trong công tác chữa cháy trên địa bàn thị trấn C năm 2022 và cũng trong năm 2022 được Cơ quan CSĐT Công an huyện H, tỉnh Thanh Hoá xác nhận đã cung cấp thông tin để Công an huyện H xác minh, điều tra bắt giữ đối tượng Phạm Văn H12 (SN 1980) ở T, H có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý (các tình tiết này bị cáo chưa cung cấp để xem xét tại cấp sơ thẩm). Bị cáo đã tự nguyện nộp toàn bộ án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), tiền phạt bổ sung (hai tội) là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) và nộp một phần số tiền đánh bạc là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) tại các Biên lai thu tiền số 0000007 ngày 12/9/2023, Biên lai thu tiền số 0000040 ngày 13/11/2023 và Biên lai thu tiền số 0000055 ngày 06/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại điểm t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Vũ Trọng Đại tự nguyện nộp tiền án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000004 và một phần số tiền phạt bổ sung 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000059 ngày 12/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Ho á. Có đơn đề nghị và xác nhận hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, đang phải nuôi mẹ đẻ già yếu và 03 người con đang còn nhỏ. Có mẹ nuôi Lê Thị H13 là Mẹ Việt Nam anh hùng. Trước khi phạm tội là công dân tốt, luôn đi đầu trong các phong trào do địa phương phát động, chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng như các quy định tại địa phương, ngày 06/7/2023 có công giúp đỡ, đưa người bị tai nạn giao thông đi cấp cứu (có xác nhận của Cơ quan Công an và chính quyền địa phương đề nghị Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Ho á xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Nguyễn Đức T2 có bà cố ngoại Vũ Thị X là Mẹ Việt Nam anh hùng, có bác ruột là Nguyễn Đình D2 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có ông ngoại là Nguyễn Đình C3 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Năm 2021 có công trả lại tài sản nhặt được cho người bị đánh rơi (có xác nhận của chính quyền địa phương). Bị cáo đã tự nguyện nộp toàn bộ án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và tiền phạt bổ sung 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) tại các Biên lai thu tiền số 0000006 ngày 13/9/2023 và Biên lai thu tiền số 0000026 ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Phan Minh C tại đơn xin xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo cũng đã hợp tác với Cơ quan điều tra, thành khẩn khai báo, hiện đang là lao động chính, nuôi mẹ đẻ già yếu và 3 người con nhỏ. Trong đại dịch Covid-19 tích cực tham gia ủng hộ phòng chống dịch (có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Nguyễn Triệu Đ1 tự nguyện nộp toàn bộ số tiền đánh bạc mà có là 63.565.200đ (sáu ba triệu, năm trăm sáu lăm nghìn, hai trăm đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000057 ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Có Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân đang là lao động chính (Chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị xem xét). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Nguyễn Quốc V2 tự nguyện nộp toàn bộ số tiền đánh bạc mà có là 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000058 ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Có Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân đang là lao động chính. Trước khi phạm tội là công dân tốt, luôn đi đầu trong các phong trào do địa phương phát động, chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước được UBND xã B và UBND huyện B, tỉnh Q tặng giấy khen (Chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị xem xét cho cải tạo tại địa phương). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Nguyễn Văn T5 tự nguyện nộp án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) tiền phạt bổ sung tại Biên lai thu tiền số 0000005 ngày 12/9/2023 và Biên lai thu tiền số 0003502 ngày 19/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Bản thân đang có bệnh “thiểu năng tuần hoàn não”, tại Đơn xin xét giảm nhẹ hình phạt bị cáo đang là lao động chính, trước khi phạm tội là công dân tốt, luôn đi đầu trong các phong trào do địa phương phát động, chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng như các quy định tại địa phương. Được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận và đề nghị Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá xem xét giảm nhẹ hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Nguyễn Văn T9 tự nguyện nộp án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và toàn bộ số tiền đánh bạc mà có là 2.938.500đ (hai triệu, chín trăm ba tám nghìn, năm trăm đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000008 ngày 13/9/2023 và Biên lai thu tiền số 0000042 ngày 17/11/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Quá trình sinh sống tại địa phương đã tích cực tham gia ủng hộ các cháu mồ côi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn xã H, N 04 suất quà cho học sinh Trường tiểu học H14 trị giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng) được Hội khuyến học xã H có thư cảm ơn. Có Đơn trình bày hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân đang là lao động chính. Trước khi phạm tội là công dân tốt, luôn đi đầu trong các phong trào do địa phương phát động, chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng như các quy định tại địa phương (Chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới HĐXX cần áp dụng khi xem xét nội dung kháng cáo và hình phạt đối với các bị cáo.
[5] HĐXX nhận thấy tại cấp phúc thẩm:
[5.1] Các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2 và Nguyễn Văn T5 đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và có xuất trình thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại điểm t khoản 1 (đối với bị cáo H) và khoản 2 Điều 51 BLHS cho cả bốn bị cáo. Mặc dù các bị cáo có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ mới song bị cáo H, Đ và T2 đã phạm hai tội và các bị cáo đều phạm tội nhiều lần với số tiền thu lợi bất chính là lớn nên cần tiếp tục cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên nhận thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng mức hình phạt đối với hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm khắc, hơn nữa tại cấp phúc thẩm các bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên HĐXX cần chấp nhận kháng cáo, xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước và sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình, xã hội. Do vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có cơ sở chấp nhận.
[5.2] Đối với bị cáo Nguyễn Văn T9 tại cấp phúc thẩm có xuất trình thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới, đã tự nguyện nộp toàn bộ án phí sơ thẩm và tiền phạt bổ sung. Chính quyền địa phương xác nhận trước khi phạm tội là công dân tốt, chưa vi phạm pháp luật lần nào, luôn đi đầu trong các phong trào do địa phương phát động, đang là lao động chính trong gia đình và đề nghị xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương. Mặc dù bị cáo phạm tội trong hai ngày nhưng đều là ít nghiêm trọng, số tiền tham gia đánh bạc không lớn, nếu áp dụng hình phạt tù giam sẽ rất khó khăn cho gia đình và con của bị cáo; Chỉ vì hám lời nên đã nhất thời phạm tội. Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của bản thân, hứa không vi phạm pháp luật. Hơn nữa có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tại địa phương, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây ra nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn tại địa phương nên cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, căn cứ Điều 65 của BLHS chuyển hình phạt cho được hưởng án treo để bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước và sự khoan hồng của pháp luật, đồng thời cũng nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo nhận thức, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh bản thân mà trở thành người công dân có ích cho xã hội. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục là phù hợp.
[5.3] Đối với bị cáo Phan Minh C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 kháng cáo xin được hưởng án treo. Nhận thấy tại cấp phúc thẩm các bị cáo cũng có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo V2 và ĐI đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền đánh bạc bị truy thu và các bị cáo đều có đơn trình bày điều kiện, hoàn cảnh gia đình, xin giảm nhẹ hình phạt và cải tạo tại địa phương. Tuy nhiên xét thấy các bị cáo đã tham gia tổ chức đánh bạc và đánh bạc nhiều lần, cũng với số tiền lớn, hành vi phạm tội, tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, bị cáo Phan Huy C2 năm 2008, bị xử phạt 14 tháng tù cho hưởng án treo về tội đánh bạc, năm 2021, bị Công an huyện C, tỉnh G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. Hơn nữa cấp sơ thẩm cũng đã xem xét nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh gia đình, hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên mức án nhẹ nhất, khởi điểm của khung hình phạt là có cơ sở pháp luật nên cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Cần giữ nguyên mức hình phạt đối với các bị cáo mà cấp sơ thẩm đã tuyên.
[6] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, HĐXX nhận thấy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5 và kháng cáo xin được hưởng án treo của Nguyễn Văn T9 là có cơ sở chấp nhận. Kháng cáo của bị cáo Phan Minh C, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là áp dụng Điều 356 của BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo C, V2 và Đ1 và áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H, Đ, T2, T5 và T9. Sửa phần hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo H, Đ, T2, T5 và T9 là phù hợp với nhận định của HĐXX và có căn cứ pháp luật.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5 và Nguyễn Văn T9 đã nộp đủ.
[8] Về tiền phạt bổ sung: Bị cáo Lê Văn H đã nộp đủ 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000040 ngày 13/11/2023 và Biên lai thu tiền số 0000055 ngày 06/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá; Bị cáo Vũ Trọng Đ đã nộp được 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000059 ngày 12/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá; Bị cáo Nguyễn Đức T2 đã nộp đủ 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000026 ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Ho á và bị cáo Nguyễn Văn T5 đã nộp 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0003502 ngày 19/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
[9]. Về số tiền là công cụ phạm tội cấp sơ thẩm đã tuyên phải truy thu: Bị cáo Lê Văn H đã nộp 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000055 ngày 06/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá; Bị cáo Nguyễn Triệu Đ1 đã nộp đủ số tiền là 63.565.200đ (sáu ba triệu, năm trăm sáu lăm nghìn, hai trăm đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000057 ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá; Nguyễn Quốc V2 đã nộp đủ số tiền là 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000058 ngày 11/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá và Nguyễn Văn T9 đã nộp đủ số tiền là 2.938.500đ (hai triệu, chín trăm ba tám nghìn, năm trăm đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000042 ngày 17/11/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá. số tiền các bị cáo đã nộp được trừ vào số tiền các bị cáo bị truy thu.
[10] Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5 và Nguyễn Văn T9 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận. Các bị cáo Phan Minh C, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu ĐI phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định do kháng cáo không được chấp nhận.
[11] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng của các bị cáo Phan Minh C, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1.
Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5.
Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận phần kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn T9.
Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 91/2023/HS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh H về phần áp dụng hình phạt.
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ và Nguyễn Đức T2 phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Bị cáo Phan Minh c phạm tội “Tổ chức đánh bạc”. Các bị cáo Nguyễn Văn T5, Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu ĐI và Nguyễn Văn T9 phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng: Điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 322; Điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Khoản 1 Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
1. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 05 (Năm) năm 06 (S) tháng tù về “Tội tổ chức đánh bạc” và 03 (Ba) năm tù về “Tội đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (Tám) năm 06 (S) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 28/12/2021 đến ngày 06/4/2022) được trừ vào thời gian chấp hành án. Về tiền phạt bổ sung bị cáo đã nộp đủ.
Áp dụng: Điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322; Điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Khoản 1 Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hỉnh sự.
2. Xử phạt: Bị cáo Vũ Trọng Đ 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù về “Tội tổ chức đánh bạc” và 03 (Ba) năm tù về “Tội đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (Tám) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 28/12/2021 đến ngày 28/01/2022) được trừ vào thời gian chấp hành án. Bị cáo phải nộp tiếp số tiền phạt bổ sung còn lại là 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.
Áp dụng: Điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322; Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Khoản 1 Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T2 05 (Năm) năm 06 (S) tháng tù về “Tội tổ chức đánh bạc” và 09 (Chín) tháng tù về “Tội đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 06 (Sáu) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 31/12/2021 đến ngày 28/01/2022) được trừ vào thời gian chấp hành án. Về tiền phạt bổ sung bị cáo đã nộp đủ.
Áp dụng: Điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 322; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
4. Xử phạt: Bị cáo Phan Minh C 05 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 15/9/2022 đến ngày 07/4/2023) được trừ vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.
Áp dụng: Điểm b, c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
5. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T5 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 28/12/2021 đến ngày 28/01/2022) được trừ vào thời gian chấp hành án. Bị cáo phải nộp tiếp số tiền phạt bổ sung còn lại là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.
Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
6. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc V2 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
7. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Triệu Đ1 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 50; Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
8. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T9 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (05/01/2024).
Giao bị cáo Nguyễn Văn T9 cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã N, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Về số tiền là công cụ phạm tội cấp sơ thẩm đã tuyên phải truy thu: Các bị Nguyễn Quốc V2, Nguyễn Triệu Đ1 và Nguyễn Văn T9 cáo đã nộp đủ. Số tiền bị cáo Lê Văn H đã nộp 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000055 ngày 06/12/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá được trừ vào số tiền bị cáo bị truy thu.
Tiếp tục truy thu đê tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền sử dụng đánh bạc và tiền thu lợi bất chính còn lại các bị cáo chưa nộp, cụ thể:
- Truy thu của Lê Văn H là 4.051.917.450đ (Bốn tỷ, không trăm năm mốt triệu, chín trăm mười bảy nghìn, bốn trăm năm mươi đồng).
- Truy thu của Vũ Trọng Đ là 12.835.735.050đ (Mười hai tỷ, tám trăm ba lăm triệu, bảy trăm ba lăm nghìn, không trăm năm mươi đồng).
- Truy thu của Nguyễn Văn T5 là 7.867.054.100đ (Bảy tỷ, tám trăm sáu bảy triệu, không trăm năm tư nghìn, một trăm đồng).
Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lê Văn H, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn T5 và Nguyễn Văn T9 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.
Áp dụng: Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Phan Minh C, Nguyễn Quốc V2 và Nguyễn Triệu Đ1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 03/2024/HS-PT
Số hiệu: | 03/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về