Bản án về tội đánh bạc (hình thức xóc đĩa Tài - Xỉu) số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN - TỈNH KH

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VN - tỉnh KH, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 66/2021/TB-TA ngày 24 tháng 12 năm 2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 11/2022/TB-TA ngày 19 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/HSST-QĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh C - sinh năm: 1990, tại VN - KH; nơi cư trú: Thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Võ Thị Kim P; có vợ là Nguyễn Thị Bích P; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

2. Huỳnh Thị V - sinh năm: 1985, tại VN - KH; nơi cư trú: Thôn TPB, xã VP, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Đ và bà Võ Thị T; có chồng là Đặng Ngọc A; có 02 con sinh năm 2008 và năm 2013; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

3. Phan Ngọc T - sinh năm: 1981, tại VN, KH; nơi cư trú: Thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đình P và bà Nguyễn Thị Thanh C (chết); có vợ là Nguyễn Thị H; có 02 con, sinh năm 2007 và năm 2012; tiền án: không; tiền sự: Bị Trưởng Công an xã VL, huyện VN xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép (theo Quyết định số 07/QĐ-XPHC ngày 29/5/2020), đóng tiền phạt ngày 02/7/2020; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

4. Nguyễn Thị Mỹ T - sinh năm: 1984, tại VN, KH; nơi cư trú: Thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Thị T; có chồng là Nguyễn Thanh H; có 02 con, sinh năm 2004 và năm 2009; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

5. Lương Thị N - sinh năm: 1970, tại VN, KH; nơi cư trú: Thôn DĐ, xã VK, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không xác định) và bà Lương Thị L (chết); có chồng là Phạm Văn H; có 02 con, sinh năm 1993 và năm 1995; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

6. Trần Thị M - sinh năm: 1979, tại VN, KH; nơi cư trú: Thôn LT, xã VL, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần C (chết) và bà Phan Thị R (chết); có chồng là Ngô Nhất S (chết); có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

7. Nguyễn Thị Hoa H (tên gọi khác: Phèn) - sinh năm: 1964, tại VN, KH; nơi cư trú: Thôn TPB, xã VP, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết); có chồng là Hà S; có 01 con sinh năm 1985; tiền án: không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt

- Người làm chứng:

+ Bà Huỳnh Thị D - sinh năm 1971; trú tại: thôn TPB, xã VP, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Khôn N - sinh năm 1990; trú tại: thôn TD 2, xã VT, huyện VN, tỉnh KH. Có mặt.

+ Bà Đoàn Thị Công L - sinh năm 1978; trú tại: thôn NT, xã VL, huyện VN, tỉnh KH. Có mặt.

+ Ông Bùi Minh V - sinh năm 1973; trú tại: thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1977; trú tại: thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

+ Bà Bùi Thị Kim T - sinh năm 1970; trú tại: thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1971; trú tại: thôn TN, xã VK, huyện VN, tỉnh KH. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h20’ ngày 27/01/2021, Công an huyện VN phối hợp cùng Công an xã VK tuần tra trên địa bàn xã VK. Khi đi đến đoạn đường đất khu vực nuôi trồng thuỷ sản thuộc thôn TN - xã VK - huyện VN - tỉnh KH thì phát hiện nhiều người đang tập trung đánh bạc trái phép dưới hình thức xóc đĩa “Tài - Xỉu” ăn thua bằng tiền. Tổ tuần tra tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Minh C, Lương Thị N, Trần Thị M, Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H; đồng thời mời một số người có mặt xung quanh khu vực chiếu bạc về trụ sở Công an xã VK làm việc. Cơ quan Công an đã thu giữ toàn bộ tang vật dùng vào việc đánh bạc và số tiền trên chiếu bạc là 9.210.000 đồng (chín triệu hai trăm mười nghìn đồng) gồm nhiều tờ tiền mệnh giá khác nhau.

Cách thức chơi xóc đĩa “Tài - Xỉu” và quy định thắng thua như sau:

Một tấm bạt ny lông màu trắng, kích thước (1,25 x 1,05)m, ở giữa tấm bạt có một bên có ghi chữ “Tài” và một bên có ghi chữ “Xỉu”, phía trên và phía dưới bên ghi chữ “Xỉu” có ghi số thứ tự từ 04 đến 10, phía trên và phía dưới bên chữ “Tài” có ghi số thứ tự từ 11 đến 17, các chữ số và chữ “Tài” - “Xỉu” được viết vẽ màu cam. Người làm cái bỏ 03 hột xí ngầu (hay còn gọi là hạt tích, mỗi hột có 06 mặt, mỗi mặt được đánh dấu từ 1 đến 6 chấm) vào đĩa bằng sứ, dùng chén bằng sứ đậy lại và tiến hành xóc. Sau khi xóc xong, người chơi đặt tiền vào bên “Tài” hoặc bên “Xỉu”, rồi người làm cái mở chén ra và tính điểm bằng cách cộng mặt trên cùng của 3 hột xí ngầu lại, từ 4 điểm đến 10 điểm là “Xỉu”, từ 11 điểm đến 17 điểm là “Tài”. Căn cứ vào số điểm tính được, nếu người chơi thắng thì người làm cái chung tiền bằng số tiền đặt, còn người chơi thua thì người làm cái lấy hết số tiền đã đặt, tỉ lệ thắng thua là 1:1. Trường hợp kết quả là 3 điểm hoặc 18 điểm thì được gọi là “Bão”, tất cả những người chơi và người làm cái đều huề tiền nhau. Ngoài ra, khi người chơi đặt cược vào các số trên tấm ny lông thì tỷ lệ thắng thua sẽ khác nhau, cụ thể: 1 thắng 2 (tương ứng với số 10,11), 1 thắng 3 (tương ứng với số 9, 12), 1 thắng 4 (tương ứng với số 8, 13), 1 thắng 5 (tương ứng với số 7, 14), 1 thắng 6 (tương ứng với số 6, 15), 1 thắng 7 (tương ứng với số 5, 16), 1 thắng 8 (tương ứng với số 4, 17); nếu kết quả không trúng với số mà người chơi đặt cược thì người làm cái sẽ ăn toàn bộ tiền đó. Vào ngày 27/01/2021, không có người chơi nào đặt cược vào các số mà chỉ đặt vào cửa “Tài” hoặc “Xỉu”. Người tham gia đánh bạc đặt cược mỗi ván từ 10.000 đồng (mười nghìn đồng) đến 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).

Qua quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:

* Đối với Nguyễn Minh C:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 27/01/2021, Nguyễn Minh C đi đến sòng bạc thuộc thôn TN - xã VK thì thấy Nguyễn Thị Lệ đang làm cái xóc “Tài - Xỉu” cho nhiều người chơi (khoảng 10 người), C lấy 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) đưa cho L để hùn vốn, rồi sau đó trực tiếp xóc để L thu - chung tiền cho những người chơi bạc. Sau khoảng 30 phút, Phan Ngọc T đến và có đưa cho L cất giữ 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) để hùn chung vốn làm cái và đứng xem những người chơi bạc. Tiếp đến thì Huỳnh Thị V đến thì L bàn giao lại túi tiền cho V để thu - chung tiền, còn L và T đứng xem một lúc rồi cùng nhau đi vô nhà L gần nơi đánh bạc để nghỉ ngơi. Nguyễn Minh C và Huỳnh Thị V tiếp tục làm cái xóc “Tài - Xỉu” (không nhớ rõ bao nhiêu ván) cho nhiều người tham gia đánh bạc gồm Nguyễn Thị Mỹ T, Trần Thị M, Lương Thị N, Nguyễn Thị Hoa H (P) và nhiều người khác (tổng cộng khoảng 20 - 30 người). Đến khoảng 16 giờ 20 phút thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và Cai đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

* Đối với Phan Ngọc T:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, Phan Ngọc T đi bộ đến sòng “Tài - Xỉu” thì thấy C là người xóc còn L là người chung - thu tiền, T đưa cho L 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) rồi L lấy bỏ vào túi ny lông sử dụng cho việc làm cái đánh bạc. Lúc này, Huỳnh Thị V đến thì V thay cho L để thu - chung tiền, còn L và T thì đứng xem một lúc rồi cùng đi vào nhà L.

* Đối với Huỳnh Thị V:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 27/01/2021, Huỳnh Thị V đi xe ôm đến nhà Nguyễn Thị L ở thôn TN - xã VK và đưa cho Lệ 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) để hùn vốn làm cái xóc “Tài - Xỉu”, rồi đi về lại nhà. Đến khoảng 14h30’ cùng ngày, Vàng đi đến xòng “Tài - Xỉu” thì thấy Nguyễn Minh C đang xóc, còn Nguyễn Thị L là người thu - chung tiền cho nhiều người đánh bạc ăn thua bằng tiền. Lúc này, Lệ đưa túi ny lông đựng tiền cho V để thay L thu - chung tiền cho những người chơi. Đến khoảng 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi lực lượng Công an đến bắt quả tang thì V vứt túi đựng tiền tại chiếu bạc và chạy thoát. Sau khi làm việc với Cơ quan Công an, Huỳnh Thị V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

* Đối với Lương Thị N:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 27/01/2021, N mang theo 910.000 đồng (chín trăm mười nghìn đồng) đến sòng “Tài - Xỉu” thuộc thôn TN - xã VK để đánh bạc. Đến nơi thì thấy Nguyễn Minh Cai là người xóc, còn Huỳnh Thị V là người chung - thu tiền cho nhiều người tham gia đánh bạc, N tham gia đánh 02 ván (50.000đồng/ván - hòa tiền) và cùng chơi với N có khoảng hơn 20 người. Đến khoảng 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi N chưa kịp đặt cược ván thứ 03 thì bị Công an bắt quả tang. Thu giữ từ N 01 điện thoại di động hiệu COGO và số tiền 910.000 đồng (chín trăm mười nghìn đồng).

* Đối với Trần Thị M:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, M mang 395.000 đồng (ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng) đến đánh tài xỉu. Tại đây, M thấy có khoảng 20 người cùng tham gia đánh bạc, M đã đánh 03 - 04 ván, mỗi ván cược từ 50.000 đồng - 100.000 đồng. Kết quả thua hết 300.000 đồng, số tiền còn lại Mcất vào túi áo khoác và không đánh nữa. Đến khoảng 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi đang ngồi xem đánh bạc thì bị bắt quả tang, thu giữ từ M 95.000 đồng (chín mươi lăm nghìn đồng).

* Đối với Nguyễn Thị Mỹ T:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 27/01/2021, Nguyễn Thị Mỹ T mang theo 5.004.000 đồng (năm triệu không trăm lẻ bốn nghìn đồng) đến sòng bạc thôn TN - xã VK - huyện VN. Khi lực lượng công an bắt quả tang đã bắt giữ T và những người khác đang đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền dưới hình thức “Tài - Xỉu” và thu giữ trên người T toàn bộ số tiền trên và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6. Tuy Nguyễn Thị Mỹ T không thừa nhận hành vi đánh bạc trái phép, nhưng qua quá trình điều tra có căn cứ xác định Nguyễn Thị Mỹ T đã tham gia đánh bạc nhiều ván, mỗi ván từ 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) đến 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) vào ngày 27/01/2021.

* Đối với Nguyễn Thị Hoa H:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 27/01/2021, Nguyễn Thị Hoa H mang theo 16.126.000 đồng (mười sáu triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng) đến sòng bạc ở thôn TN - xã VK - huyện VN. Khi lực lượng công an bắt quả tang đã bắt giữ H và những người khác đang đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền dưới hình thức “Tài - Xỉu” và thu giữ trên người Hồng toàn bộ số tiền trên và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6. Tuy Nguyễn Thị Hoa H không thừa nhận hành vi đánh bạc trái phép, nhưng qua quá trình điều tra có căn cứ xác định H đã tham gia đánh bạc nhiều ván, mỗi ván từ 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) đến 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) vào ngày 27/01/2021.

Tại bản Cáo trạng số 74/CT-VKSVN ngày 11 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện VN - tỉnh KH đã truy tố để xét xử Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Nguyễn Thị Mỹ T, Lương Thị N, Trần Thị M, Nguyễn Thị Hoa H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

- Các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Trần Thị M, Lương Thị N đều đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

- Các bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo T khai chiều ngày 27/01/2021, bị cáo đến khu vực sòng tài xỉu ở thôn TN - xã VK để tìm Nguyễn Thị L đòi tiền và mua bún về nhà ăn, bị cáo không tham gia đánh bạc. Bị cáo H khai đến khu vực sòng tài xỉu nói trên để tìm người tên Đ ở VP đòi nợ, bị cáo không tham gia đánh bạc.

- Người làm chứng anh Nguyễn Khôn Ng xác định thấy bị cáo H và bị cáo Ta có tham gia chơi đánh bạc. Thấy T chơi được 02 ván, một ván đặt cược số tiền 40.000đồng và một ván đặt số tiền 60.000đồng. Thấy H chơi nhiều ván đặt cược từ 50.000 - 100.000đồng; còn T, H thắng thua như thế nào thì không rõ.

- Người làm chứng bà Nguyễn Thị L khai vào ngày 27/01/2021 bà bị bệnh nên ở nhà cả ngày, không đến sòng bạc tại thôn TN - xã VK nên không biết gì về việc ai tham gia đánh bạc. Bản thân bà cũng không góp tiền cùng các bị cáo C, Trân, V để tổ chức ra sòng tài - xỉu này.

- Người làm chứng bà Bùi Thị Công L khai vào chiều ngày 27/01/2021 khi bán bún gần sòng tài - xỉu do vị trí ngồi quay lưng lại với sòng tài - xỉu nên không biết được có những ai tham gia chơi tại sòng này.

- Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Nguyễn Thị Mỹ T, Lương Thị N, Trần Thị M, Nguyễn Thị Hoa H theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i - s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Lương Thị N; áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i - n - s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Thị M; áp dụng khoản 1 Điều 321 điểm điểm i - s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Ngọc T; áp dụng khoản 1 Điều 321 điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T, Nguyễn Thị Hoa H.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Thị V 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Lương Thị N từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị M từ 09 tháng đến 01 năm cải tạo không giam giữ.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Ngọc T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoa H từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng và miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trần Thị M.

Về vật chứng vụ án:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

. 01 tấm bạt ny lông màu trắng, kích thước (1,25x1,05)m, giữa tấm bạt một bên có ghi chữ “Tài” một bên có ghi chữ “Xỉu”, phía trên và phía dưới bên ghi chữ “Xỉu” có ghi số thứ tự từ 04 đến 10; bên dưới số 04 ghi số 30, dưới số 05 ghi số 18, dưới số 6 ghi số 14, dưới số 7 ghi số 13, dưới số 08 ghi số 08, dưới số 9 ghi số 06, dưới số 10 ghi số 06. Phía trên và phía dưới bên chữ “Tài” có ghi số thứ tự từ 11 đến 17, tương ứng bên dưới số 11 ghi số 06, bên dưới số 12 ghi số 06, bên dưới số 13 ghi số 08, bên dưới số 14 ghi số 12, bên dưới số 15 ghi số 14, bên dưới số 16 ghi số 18, bên dưới số 17 ghi số 30. Các chữ số và chữ “Tài” – “Xỉu” được viết và vẽ màu cam.

. 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 09cm, bên trong có hoa văn nổi hình cây và chim.

. 01 chén sứ màu trắng, hình tròn, cao 05cm, đường kính miệng 07cm, trên thân có hoa văn nổi hình cây và chim.

. 03 (ba) hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm.

. 01 túi ny lon màu trắng, kích thước (20x11)cm, bên trong đựng 09 hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm.

. 01 chiếu đan bằng cói, kích thước (1,5x2)m.

. 01 tấm bạc nhựa có một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,4x5,4)m, 03 đầu tấm bạc được cột bằng 03 đoạn dây thừng bằng nhựa.

. 01 tấm bạc một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,9x3,5)m, 02 đầu tấm bạc được cột bằng 02 đoạn dây thừng bằng nhựa.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.210.000đồng thu trên chiếu bạc, số tiền 910.000đồng thu giữ trên người bị cáo Lương Thị N và số tiền 95.000đồng thu giữ trên người bị cáo Trần Thị M.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T số tiền 5.004.000đồng và trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Hoa H số tiền 16.126.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, tuy vắng mặt các người làm chứng là bà Huỳnh Thị D, ông Bùi Minh V, bà Nguyễn Thị T, bà Bùi Thị Kim T nhưng các bị cáo không có ý kiến hoặc yêu cầu gì về sự vắng mặt của người làm chứng, riêng người làm chứng Bùi Minh V đã được Hội đồng xét xử ra Quyết định dẫn giải số 02/2022/QĐDG- HS ngày 28/02/2022 nhưng việc dẫn giải không thực hiện được vì ông Vâ không có mặt tại địa phương. Xét thấy, các người làm chứng đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của các người chứng không ảnh hưởng đến kết quả xét xử vụ án. Vì vậy, căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc yêu cầu gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Lương Thị N, Trần Thị M đã khai nhận hành vi đánh bạc của mình như nội dung bản Cáo trạng số 74/CT-VKSVN ngày 11 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh KH đã nêu. Lời khai của các bị cáo nói trên phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T và bị cáo Nguyễn Thị Hoa H tuy không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng căn cứ vào lời khai của các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T tại các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can cũng như lời khai tại phiên tòa thì các bị cáo này khẳng định vào chiều ngày 27/01/2021, Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H có mặt tham gia chơi đánh bạc tại sòng tài xỉu ở thôn TN - xã VK thì bị bắt quả tang. H tham gia chơi nhiều ván, đặt cược nhiều khoản tiền khác nhau nhưng thường là đặt mỗi ván từ 50.000đồng - 100.000đồng. T có tham gia chơi mỗi ván đặt từ 50.000đồng - 100.000đồng.

Ngoài ra, tại các biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất của các người làm chứng là bà Huỳnh Thị D, anh Nguyễn Khôn N và ông Bùi Minh V đều xác định thấy Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H tham gia chơi đánh bạc tại sòng tài - xỉu ở thôn TN - xã VK vào chiều ngày 27/01/2021. Người làm chứng anh Nguyễn Khôn N khai: “Thấy bà P (H) mặc áo khoác màu cam, quần vải đen đỏ ngồi hướng mặt về phía Nam, cách C khoảng 02 mét về phía Bắc (phía tay trái của C), tôi thấy bà H (P) trên tay cầm nhiều tờ tiền mệnh giá 500.000đồng và 200.000đồng, bà H đặc cược mỗi ván khoảng từ 200.000đồng đến 1.000.000đồng, đặt cược nhiều ván…; thấy Nguyễn Thị Mỹ T mặc áo khoác màu nâu, đeo túi xách chéo màu đen đứng đối diện với bà H, tức là quay mặt về hướng Bắc đánh nhiều ván xuống chiếu bạc”. Người làm chứng bà Huỳnh Thị D khai: “Tôi thấy bà H ngồi sát chiếu bạc, cầm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đồng từ dưới chiếu bạc lên cầm trên tay…”. Người làm chứng Bùi Minh V xác định vị trí của T và H ngồi tại chiếu bạc chiều ngày 27/01/2021, cụ thể: T ngồi bên trái chiếu bạc, bên mặt xỉu, xoay lưng về hướng Nam; còn H ngồi bên mặt phải chiếu bạc, bên mặt tài, xoay lưng về hướng bắc; trên tay T và H cầm nhiều tiền và cả hai cũng nhiều lần đặt tiền xuống chiếu bạc. Đồng thời tại phiên tòa, anh N cũng khẳng định thấy T chơi 02 ván, một ván đặt cược số tiền 40.000đồng (hai tờ tiền, mỗi tờ mệnh giá 20.000đồng) và một ván đặt số tiền 60.000đồng (hai tờ tiền, một tờ mệnh giá 10.000đồng và một tờ mệnh giá 50.000đồng); thấy H chơi nhiều ván đặt cược từ 50.000 - 100.000đồng; còn T, H thắng thua như thế nào thì không rõ.

Vì vậy, dù bị cáo T và bị cáo H không thừa nhận hành vi đánh bạc của mình nhưng đủ cơ sở kết luận trong khoảng thời gian từ 14 giờ 00 phút đến 16 giờ 20 phút, tại đoạn đường đất khu vực nuôi trồng thủy sản thuộc thôn TN - xã VK - huyện VN, Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T cùng nhau hùn tiền làm cái đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền với hình thức xóc đĩa “Tài - Xỉu” cho những người tham gia đánh bạc gồm Lương Thị N, Trần Thị M, Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Tổng số tiền dùng để đánh bạc là 10.125.000đ (mười triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng); trong đó tiền thu giữ tại chiếu bạc là 9.210.000đồng, tiền thu giữ của Lương Thị N là 910.000đồng, tiền thu giữ của Trần Thị M là 95.000đồng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Lương Thị N, Trần Thị M, Nguyễn Thị Mỹ T và Nguyễn Thị Hoa H trên đây là đã phạm tội “Đánh bạc ”, tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm....”.

[4] Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng gây mất trật tự trị an xã hội, góp phần làm tăng tệ nạn bài bạc trong xã hội nên cần phải xử lý nghiêm minh với hình phạt nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và ngăn ngừa chung. Xét hành vi, mức độ từng bị cáo thì thấy:

Các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V và Phan Ngọc T là những người góp tiền làm cái đánh bạc trái phép, là người có vai trò chính trong quá trình thực hiện tội phạm; bị cáo V và bị cáo T còn trực tiếp làm cái xóc tài - xỉu, thu - chung tiền cho nhiều con bạc tham gia đánh bạc. Bên cạnh đó, ngoài lần hùn tiền làm cái đánh bạc vào ngày 27/01/2021 thì các bị cáo này còn làm cái đánh bạc, cũng với hình thức xóc “Tài - Xỉu”, sát phạt nhau bằng tiền vào ngày 26/01/2021. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo C, V và T mức án nghiêm khắc mới tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i - s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Đối với bị cáo C và bị cáo V đều là người dân lao động; không có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và không cần thiết phải cách ly các bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội, nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự và các quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho bị cáo Cai và bị cáo Vàng được hưởng án treo để các bị cáo tự cải tạo. Riêng bị cáo T là người đang có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép (theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC ngày 29/5/2020 của Trưởng Công an xã Vạn Long - huyện VN) thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, không chịu tiếp thu cải tạo mà lại tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và ngăn ngừa chung.

Đối với bị cáo Lương Thị N mang theo số tiền 910.000đồng đến sòng tài - xỉu để đánh bạc nhưng mới đánh được 02 ván thì hòa tiền. Bị cáo M mang theo 395.000đồng để đánh bạc, tham gia cược 3 - 4 ván thua hết 300.000đồng, còn lại 95.000đồng.

Đối với bị cáo T và bị cáo H tuy không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng có đủ cơ sở khẳng định các bị cáo này tham gia đánh bạc với nhiều lần đặt cược tiền trên chiếu bạc, số tiền bị cáo Thoa đặt cược từ 40.000đồng - 100.000đồng, số tiền bị cáo H đặt cược từ 50.000đồng - 100.000đồng.

Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo N, T, H, M phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo N và bị cáo M đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho N và M. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo M đang mang thai nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Bên cạnh đó, bị cáo N và bị cáo M là những người có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội vì vậy áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự và các quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho bị cáo N được hưởng án treo; áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo M cho bị cáo cải tạo không giam giữ cũng đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo T và bị cáo H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không thành khẩn khai báo, gây khó khăn cho công tác điều tra và xử lý tội phạm, vì v ậy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo này mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và ngăn ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo C, V, T, N, M, T, H là người có việc làm không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo. Bị cáo M thuộc trường hợp hộ cận nghèo ở địa phương nên miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Trần Thị M.

[6] Nguyễn Minh C, Phan Ngọc T và Huỳnh Thị V khai nhận mỗi người góp 1.300.000đồng cùng với phần tiền của Nguyễn Thị L là 2.600.000đồng để làm cái xóc Tài - Xỉu tại khu vực bờ đìa thôn TN - xã VK trong khoảng thời gian từ 15 ngày trước cho đến ngày bị bắt quả tang, tất cả các dụng cụ đánh bạc đều do Nguyễn Thị L chuẩn bị sẵn. Ngày 27/01/2021, ngoài số tiền các bị cáo C, V, T và Nguyễn Thị L góp ra còn có thêm 4.000.000đồng là tiền còn lại sau khi tổ chức xóc đĩa vào ngày 26/01/2021. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra không xác định được cụ thể số tiền dùng để đánh bạc và người tham gia đánh bạc trong những lần đánh bạc trước ngày 27/01/2021 nên không có căn cứ xử lý đối với những lần đánh bạc này.

[7] Nguyễn Thị L không thừa nhận việc góp tiền và chuẩn bị các dụng cụ dùng để đánh bạc để cùng C, V, T làm cái xóc Tài - Xỉu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VN tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

[8] Trong vụ án này khi Cơ quan Công an bắt quả tang, có một số con bạc lợi dụng sơ hở bỏ chạy, vì không biết tên và địa chỉ rõ ràng nên Cơ quan điều tra sẽ tiến hành xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Đối với những người có mặt tại khu vực sòng bạc khi lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang gồm: Huỳnh Thị D, Nguyễn Khôn N, Đoàn Thị Công L, Bùi Minh V, Nguyễn Thị T và Bùi Thị Kim T. Qua kết quả điều tra xác định những người này không tham gia đánh bạc nên không có cơ sở để xử lý theo quy định của pháp luật.

[10] Về vật chứng vụ án:

+ 01 tấm bạt ny lông màu trắng, kích thước (1,25x1,05)m, giữa tấm bạt một bên có ghi chữ “Tài” một bên có ghi chữ “Xỉu”, phía trên và phía dưới bên ghi chữ “Xỉu” có ghi số thứ tự từ 04 đến 10; bên dưới số 04 ghi số 30, dưới số 05 ghi số 18, dưới số 6 ghi số 14, dưới số 7 ghi số 13, dưới số 08 ghi số 08, dưới số 9 ghi số 06, dưới số 10 ghi số 06. Phía trên và phía dưới bên chữ “Tài” có ghi số thứ tự từ 11 đến 17, tương ứng bên dưới số 11 ghi số 06, bên dưới số 12 ghi số 06, bên dưới số 13 ghi số 08, bên dưới số 14 ghi số 12, bên dưới số 15 ghi số 14, bên dưới số 16 ghi số 18, bên dưới số 17 ghi số 30. Các chữ số và chữ “Tài” - “Xỉu” được viết và vẽ màu cam.

+ 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 09cm, bên trong có hoa văn nổi hình cây và chim.

+ 01 chén sứ màu trắng, hình tròn, cao 05cm, đường kính miệng 07cm, trên thân có hoa văn nổi hình cây và chim.

+ 03 (ba) hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm.

+ 01 túi ny lon màu trắng, kích thước (20x11)cm, bên trong đựng 09 hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm.

+ 01 chiếu đan bằng cói, kích thước (1,5x2)m.

+ 01 tấm bạc nhựa có một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,4x5,4)m, 03 đầu tấm bạc được cột bằng 03 đoạn dây thừng bằng nhựa.

+ 01 tấm bạc một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,9x3,5)m, 02 đầu tấm bạc được cột bằng 02 đoạn dây thừng bằng nhựa.

Đây là các công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền thu giữ được trên chiếu bạc và số tiền thu giữ trên người bị cáo Lương Thị N và Trần Thị M dùng vào mục đích đánh bạc tổng cộng là 10.125.000đồng là tang vật phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Số tiền 5.004.000đồng thu giữ trên người Nguyễn Thị Mỹ T và số tiền 16.126.000đồng thu giữ trên người Nguyễn Thị Hoa H không chứng minh được các bị cáo dùng số tiền này để đánh bạc nên trả lại cho các bị cáo số tiền trên.

[11] Về án phí:

- Các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Lương Thị N, Nguyễn Thị Mỹ T, Nguyễn Thị Hoa H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, với số tiền mỗi bị cáo phải chịu là 200.000đồng.

- Bị cáo Trần Thị M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật với số tiền phải chịu là 200.000đồng. Ngày 10 tháng 3 năm 2021, bị cáo Trần Thị M có đơn xin miễn tiền án phí nên bị cáo được miễn tiền án phí trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Minh C, bị cáo Huỳnh Thị V và bị cáo Lương Thị N.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Ngọc T.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s, n khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Thị M.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T và bị cáo Nguyễn Thị Hoa H (tên gọi khác: Phèn).

- Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các bị cáo.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”. Giao bị cáo Nguyễn Minh C cho Ủy ban nhân dân xã VK, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị V 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”. Giao bị cáo Huỳnh Thị V cho Ủy ban nhân dân xã VP, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Lương Thị N 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm, kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”. Giao bị cáo Lương Thị Nga cho Ủy ban nhân dân xã VK, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Trần Thị M 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục nhận được bản án và quyết định thi hành án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã VL, huyện VN, tỉnh KH giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giữ. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

- Xử phạt bị cáo Phan Ngọc T 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoa H (tên gọi khác: P) 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

* Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

- Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 tấm bạt ny lông màu trắng, kích thước (1,25x1,05)m, giữa tấm bạt một bên có ghi chữ “Tài” một bên có ghi chữ “Xỉu”, phía trên và phía dưới bên ghi chữ “Xỉu” có ghi số thứ tự từ 04 đến 10; bên dưới số 04 ghi số 30, dưới số 05 ghi số 18, dưới số 6 ghi số 14, dưới số 7 ghi số 13, dưới số 08 ghi số 08, dưới số 9 ghi số 06, dưới số 10 ghi số 06. Phía trên và phía dưới bên chữ “Tài” có ghi số thứ tự từ 11 đến 17, tương ứng bên dưới số 11 ghi số 06, bên dưới số 12 ghi số 06, bên dưới số 13 ghi số 08, bên dưới số 14 ghi số 12, bên dưới số 15 ghi số 14, bên dưới số 16 ghi số 18, bên dưới số 17 ghi số 30. Các chữ số và chữ “Tài” - “Xỉu” được viết và vẽ màu cam; 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 09cm, bên trong có hoa văn nổi hình cây và chim; 01 chén sứ màu trắng, hình tròn, cao 05cm, đường kính miệng 07cm, trên thân có hoa văn nổi hình cây và chim; 03 (ba) hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm; 01 túi ny lon màu trắng, kích thước (20x11)cm, bên trong đựng 09 hột tích (xí ngầu) lập phương, trên mỗi mặt có in hình các dấu chấm trong từ 01 chấm đến 06 chấm; 01 chiếu đan bằng cói, kích thước (1,5x2)m; 01 tấm bạc nhựa có một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,4x5,4)m, 03 đầu tấm bạc được cột bằng 03 đoạn dây thừng bằng nhựa; 01 tấm bạc một mặt màu xanh, một mặt màu đen, kích thước (4,9x3,5)m, 02 đầu tấm bạc được cột bằng 02 đoạn dây thừng bằng nhựa.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện VN và Chi cục Thi hành án dân sự huyện VN ngày 09 tháng 11 năm 2021).

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 9.210.000đồng (chín triệu hai trăm mười nghìn đồng) đang gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện VN, tỉnh KH theo Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số CT 0000174 ngày 05/3/2021.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 910.000đồng (chín trăm mười nghìn đồng) của Lương Thị N và số tiền 95.000đồng (chín mươi lăm nghìn đồng) của Trần Thị M đang tạm gửi tại tài khoản Công an huyện VN, số tài khoản 39490X239000000, giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 15/7/2021.

+ Trả lại số tiền 5.004.000đồng (năm triệu không trăm lẻ bốn nghìn đồng) cho bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T và trả lại số tiền 16.126.000đồng (mười sáu triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng) cho bị cáo Nguyễn Thị Hoa H đang tạm gửi tại tài khoản Công an huyện VN, số tài khoản 39490X239000000, giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 15/7/2021.

- Về án phí:

+ Các bị cáo Nguyễn Minh C, Huỳnh Thị V, Phan Ngọc T, Lương Thị N, Nguyễn Thị Mỹ T, Nguyễn Thị Hoa H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, với số tiền mỗi bị cáo phải chịu là 200.000đồng.

+ Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Trần Thị M với số tiền là 200.000đồng.

- Quyền kháng cáo của các bị cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh KH xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc (hình thức xóc đĩa Tài - Xỉu) số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về