TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2020/HS- ST ngày 02 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-HS ngày 16/7/2020, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn Q - sinh năm 1964; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: bộ đội nghỉ hưu; trình độ văn hoá: 9/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Nh và bà Nguyễn Thị D (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Văn T - sinh năm 1988; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Lại Thị Ph; có vợ Lương Thị P và 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Minh H - sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Đỗ Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Văn M - sinh năm 1987; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị T; có vợ Đỗ Thị P và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
5. Ngô Nhật T1 - sinh năm 1989; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T và bà Vũ Thị N; có vợ Bùi Thị Quỳnh D và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
6. Đỗ Văn T2 - sinh năm 1997; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
7. Nguyễn Đôn M - sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn C, xã MĐ, huyện ƯH, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đôn Q và bà Bùi Thị L; có vợ Lưu Thị T và 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/5/2020 đến ngày 10/5/2020 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: chị Ngô Thị H - sinh năm 1992; nơi cư trú: thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có mối quan hệ họ hàng, làng xóm và quen biết nhau, khoảng 20 giờ ngày 01/5/2020, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2 và Nguyễn Đôn M đến nhà Nguyễn Văn Q ở thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam ăn cơm, uống rượu. Trong lúc ăn cơm, cả nhóm thống nhất sau khi ăn xong thì xuống dưới gian bếp của nhà Q để đánh bạc. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì cả nhóm ăn cơm xong. T đi mua bộ bài tú lơ khơ về rồi lần lượt Q, T, T1, H, M, T2, M xuống gian bếp cũ của nhà Q, cùng ngồi trên 02 chiếc chiếu cói đã trải sẵn để đánh bạc dưới hình thức chơi “Liêng”. Quá trình đánh bạc, các đối tượng thống nhất và quy định cách thức chơi cụ thể như sau: sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân gồm Át (A), 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, mỗi loại quân bài có bốn chất được quy ước từ lớn nhất đến nhỏ nhất lần lượt là “Rô”, “Cơ”, “Tép”, “Bích”. Khi chơi, mỗi người được chia 03 quân bài, ở mỗi ván bài mỗi người chơi phải bỏ ra 10.000 đồng gọi là tiền “gà”. Sau khi lên bài, người nhất ván trước bắt đầu “tố” hoặc úp bài, tiếp đó đến người ngồi bên tay phải liền kề cho đến hết số người chơi, mỗi lần “tố” thấp nhất là 10.000 đồng, cao nhất là 200.000 đồng. Khi “tố” xong thì mở bài ra để đọ với nhau, bài của người chơi lớn nhất về chất sẽ thắng và được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ vào “gà”, tiền “tố” thêm và được chia ván bài tiếp theo. Bài lớn nhất được tính theo thứ tự: lớn nhất là bài “Sáp”, tức là có 03 quân bài cùng loại, lớn nhất là 03 cây “Át”, nhỏ nhất là 03 cây “2”; tiếp đến là bài “Liêng”, tức là có 03 quân bài thứ tự liền kề nhau, lớn nhất có 03 cây là “Q-K-Át”, nhỏ nhất có 03 cây là “Át-2- 3”; tiếp theo là “Đĩ”, tức là bài có 03 quân bài hình “đầu người” nhưng không phải là “Sáp” và “Liêng”, “Đĩ” to nhất có hai quân “K” và một quân “Q”, nhỏ nhất là hai quân “J” và một quân “Q”; sau cùng là tính “Điểm”, người chơi cộng điểm của 03 quân bài lại với nhau, trong đó quân Át (A) được tính 01 điểm, các quân bài từ 10 đến K tính 0 điểm, sau khi cộng điểm của 03 cây bài mà vượt quá 10 điểm thì sẽ lấy hàng đơn vị để so sánh với nhau, bài to nhất là 09 điểm, nhỏ nhất là 0 điểm. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 02/5/2020, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị tổ công tác của Công an huyện Thanh Liêm phối hợp Công an xã Liêm Túc phát hiện bắt quả tang.
* Tài sản, vật chứng thu giữ gồm:
- Thu giữ tại nơi các đối tượng ngồi đánh bạc số tiền 5.730.000đ (năm triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng); 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 02 (hai) chiếc chiếu cói đã cũ.
- Thu giữ trên người các đối tượng: Nguyễn Văn Q 01 (một) ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng); Nguyễn Đôn M 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11; Nguyễn Văn M 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7 và số tiền 1...0.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng); Ngô Nhật T1 01 (một) ví giả da màu đen bên trong có số tiền 440.000đ (bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S; Đỗ Văn T2 01 (một) ví giả da màu đen bên trong không có tài sản, giấy tờ gì, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105. Thu giữ tại sân nhà Nguyễn Văn Q 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 90A1-022... và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 90B1-623....
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn Q tại thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam, Cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Cơ quan điều tra đã chứng minh làm rõ tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 7.670.000 đồng, gồm 5.730.000 thu giữ trên chiếu bạc và 1...0.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn M cùng 440.000 đồng thu giữ của Ngô Nhật T1.
* Xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Ngô Thị H 01 (một) xe mô tô BKS 90B1-623...; Nguyễn Văn M 01 (một) xe mô tô BKS 90A1-022... và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7; Nguyễn Văn Q 01 (một) ví giả da màu nâu; Nguyễn Đôn M 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11; Ngô Nhật T1 01 (một) ví giả da màu đen và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S; Đỗ Văn T2 01 (một) ví giả da màu đen, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105.
Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKSTL ngày 02/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn Q, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2 và Nguyễn Đôn M về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên toà:
- Đại diện Viện kiểm sát dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2 và Nguyễn Đôn M phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 (đối với tất cả các bị cáo), khoản 2 Điều 51 (đối với Nguyễn Văn Q, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Lê Văn T, Đỗ Văn T2) của Bộ luật Hình sự - xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng; Lê Văn T từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng; Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2, Nguyễn Đôn M mỗi bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng; miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo; buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 7.670.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ và 02 (hai) chiếc chiếu cói; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Q số tiền 1.000.000 đồng.
- Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và có ý kiến xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 22 giờ ngày 01/5/2020, tại gian bếp nhà Nguyễn Văn Q ở thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; Nguyễn Văn Q cùng với Lê Văn T, Nguyễn Văn M, Đỗ Văn T2, Nguyễn Minh H, Ngô Nhật T1 và Nguyễn Đôn M đánh bạc dưới hình thức chơi “Liêng”. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 02/5/2020, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị lực lượng Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Liêm Túc phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 7.670.000đ (bảy triệu sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
[3] Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là trên năm triệu đồng và dưới năm mươi triệu đồng. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đây là vụ án có nhiều đối tượng tham gia nhưng không có sự chuẩn bị, phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể, có tính chất tự phát, nên xác định đồng phạm giản đơn.
Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy: Nguyễn Văn Q đã sử dụng gian bếp nhà mình để làm nơi đánh bạc và trực tiếp tham gia đánh bạc, nên giữ vai trò thứ nhất; Lê Văn T là người đi mua bộ bài tú lơ khơ và trực tiếp tham gia đánh bạc, nên giữ vai trò thứ hai; Nguyễn Văn M, Đỗ Văn T2, Nguyễn Minh H, Ngô Nhật T1 và Nguyễn Đôn M cùng tham gia đánh bạc, nên cùng giữ vai trò đồng phạm trong vụ án.
Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Về nhân thân: các bị cáo đều là người có nhân thân tốt.
Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo đều “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Nguyễn Văn Q bị bệnh hiểm nghèo (ung thư thực quản), các bị cáo Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Lê Văn T, Đỗ Văn T2 đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương; nên Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo này được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về quyết định hình phạt:
- Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: các bị cáo đều có nhân thân tốt và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy, xét thấy không cần phải bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung. Việc cho các bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, nhưng cũng phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo Nguyễn Văn Q hiện đang mắc bệnh ung thư thực quản, bị cáo Ngô Nhật T1 và Nguyễn Đôn M là lao động tự do, không có thu nhập ổn định; các bị cáo Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Lê Văn T, Đỗ Văn T2 đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 7.670.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc và thu giữ trên người của Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1: quá trình điều tra xác định đây là số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, nay cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 (một) bộ bài tú lơ khơ và 02 (hai) chiếc chiếu cói đã cũ: đây là công cụ phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn Q: quá trình điều tra xác định số tiền này là tài sản hợp pháp của Q, không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho Q.
- Đối với chiếc xe mô tô BKS 90B1-623...: quá trình điều tra xác định, chiếc xe này là tài sản hợp pháp của chị Ngô Thị H; ngày 01/5/2020, T1 mượn xe này của chị H để làm phương tiện đi lại, chị H hoàn toàn không biết T1 sử dụng xe để đi đánh bạc và T1 cũng không sử dụng chiếc xe trên vào mục đích đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị H là đúng pháp luật.
- Đối với chiếc xe mô tô BKS 90A1-022..., 06 chiếc điện thoại di động các loại và 03 chiếc ví giả da thu giữ của các bị cáo: quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của các bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội; vì vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo là đúng pháp luật.
[6] Về các vấn đề khác:
- Đối với Nguyễn Văn Q: ngoài hành vi trực tiếp tham gia đánh bạc, Q còn có hành vi sử dụng địa điểm là nhà ở của mình cho các đối tượng khác đánh bạc. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định Q không thu tiền, không phân công người canh gác, người phục vụ . . ., số lượng người đánh bạc dưới 10 người; bản thân Q chưa bị xử phạt vi phạm hành chính cũng như chưa bị kết án về tội “Đánh bạc” hay “Tổ chức đánh bạc”, “Gá bạc”. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về tội “Tổ chức đánh bạc” hoặc “Gá bạc” là đúng pháp luật.
[7] Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 (đối với tất cả các bị cáo), khoản 2 Điều 51 (đối với Nguyễn Văn Q, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Lê Văn T, Đỗ Văn T2), Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
1. Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2 và Nguyễn Đôn M phạm tội “Đánh bạc”.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Lê Văn T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Ngô Nhật T1 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T2 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đôn M 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/7/2020).
Giao các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1 và Đỗ Văn T2 cho Ủy ban nhân dân xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Giao bị cáo Nguyễn Đôn M cho Ủy ban nhân dân xã Minh Đức, huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Xử lý vật chứng: tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 7.670.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ và 02 (hai) chiếc chiếu cói đã cũ; trả lại cho Nguyễn Văn Q số tiền 1.000.000 đồng (tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/7/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm; số tiền theo Ủy nhiệm chi số 32 lập ngày 03/7/2020 tại Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Liêm).
3. Án phí: các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Văn T, Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M, Ngô Nhật T1, Đỗ Văn T2 và Nguyễn Đôn M mỗi người phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: các bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.
Bản án về tội đánh bạc (hình thức chơi Liêng) số 48/2020/HS-ST
Số hiệu: | 48/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về