TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 56/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, GÁ BẠC
Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại TAND thị xã Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
1. Trần Đăng T, sinh năm 1977.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đăng B và bà Đào Thị F; có vợ là Nguyễn Thị Q và 03 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
- Ngày 17/10/1997 bị TAND huyện Q, tỉnh B xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 27/11/1997.
- Ngày 10/7/2016 bị Công an huyện Q, tỉnh B ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Đánh bạc”. Chấp hành xong ngày 12/7/2016.
Bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 20/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
2. Phạm Trọng Th, sinh năm 1989.
HKTT: thôn Phúc Lộc, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trọng B và bà Nguyễn Thị S; có vợ là Quách Thị H và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 22/01/2008 bị TAND huyện Q, tỉnh B xử phạt 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong bản án ngày 22/7/2010.
Bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 20/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
3. Nguyễn Văn M, sinh năm 1990.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B;
nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Đàm Thị B; có vợ là Phạm Thị Vân A và 04 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 14/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
4. Nguyễn Văn L, sinh năm 1990.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế N và bà Trần Thị H; có vợ là Vũ Thị D và 03 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 17/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
5. Bùi Xuân Th, sinh năm 1976.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Hà Thị H; có vợ là Trương Thị S và 01 con sinh năm 2021; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 14/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
6. Nguyễn Văn T2, sinh năm 1988.
HKTT: thôn Phúc Lộc, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị X; có vợ là Nguyễn Thị H và 03 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 14/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
7. Bùi Văn C, sinh năm 1986.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Phạm Thị T; có vợ là Phạm Thị M và 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 14/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
8. Phạm Trọng H2, sinh năm 1984.
HKTT: thôn Phúc Lộc, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng); con ông Phạm Trọng C và bà Hoàng Thị L; có vợ là Nguyễn Thị H và 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 17/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
9. Trần Anh T3, sinh năm 1990.
HKTT: 305/2 đường Lê Văn Quới, Tổ 4, Khu phố 1, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí M; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc D và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Trần Hải Y và 01 con sinh năm 2021; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 17/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
10. Vũ Văn Tr, sinh năm 1987.
HKTT: thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn K và bà Đặng Thị L; có vợ là Lê Thị Th và 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 17/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
11. Nguyễn Ngọc Ph, sinh năm 1975.
HKTT: thôn Phúc Lộc, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc G và bà Lê Thị H; có vợ là Nguyễn Thị T và 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2023 đến ngày 17/10/2023, hiện tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08h00' ngày 11/10/2023, Trần Đăng T đang ở quán cà phê Ngọc Bích của gia đình tại thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q thì có Nguyễn Văn T2 và Phạm Trọng H2 đến uống nước. Sau đó, H2 nhắn tin cho Nguyễn Ngọc Ph rủ đến quán cà phê nhà T uống nước, Ph đồng ý. Khi T2, H2, Ph đang ngồi uống nước thì gặp Nguyễn Văn L và Trần Anh T3 đến quán cà phê nhà T ngồi uống nước cùng. Khi đang ngồi uống nước thì T2 nói: "Anh em lên tầng 2 làm tý liêng" – ý rủ lên tầng hai nhà T đánh bạc, các đối tượng đồng ý. Lúc này, T đang ở trong quán nên biết T2 rủ mọi người lên tầng 2 nhà mình đánh bạc nhưng không nói gì và để cho các đối tượng tự đi lên tầng 2 của nhà T để đánh bạc (mục đích sau khi đánh xong sẽ thu tiền nước của các đối tượng đánh bạc). T2, H2, Ph, L và T3 đi lên tầng 2 thì thấy 02 bộ bài tú lơ khơ để ở giữa 01 chiếc chăn màu tím đã được chải sẵn ở giữa 01 phòng trống trên tầng 2. Khi lên các đối tượng ngồi xuống chăn nói chuyện, được khoảng 5 phút thì có Nguyễn Văn M và Bùi Văn C đến nhà T. Lúc này T2 rủ L, H2, T3, Ph, M và C đánh bạc dưới hình thức đánh liêng, các đối tượng đều đồng ý. Sau đó, T3 đứng dậy khóa cửa phòng còn C chia bài để cùng các đối tượng đánh bạc. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, Vũ Văn Tr gọi điện hẹn gặp T3 để trả nợ thì T3 bảo Tr đến tầng 2 nhà T gặp T3. Sau đó, Tr đi đến nhà T thì gặp Bùi Xuân Th và T đang ngồi uống nước. Tại đây, Tr ngồi uống nước cùng T và Th một lát rồi đi lên tầng 2 gặp T3, khi thấy Tr đi lên tầng 2 thì Th cũng đi theo Tr. Khi thấy Tr và Th đến thì T3 mở của để Tr và Th đi vào. Thấy các đối tượng đang đánh bạc nên Tr và Th ngồi xuống tham gia đánh bạc cùng. Khoảng 15 phút sau, Phạm Trọng Th đến nhà T chơi thì thấy T đang chặt cây ở khu vực ban công tầng hai nên Th đi lên tầng 2 gặp T. Khi Th đi lên tầng 2 thấy các đối tượng đanh đánh bạc, nên Th bảo T đưa cho Th 01 chìa khóa cửa phòng các đối tượng đang đánh bạc để mở cửa vào cùng tham gia đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 11h40’ ngày 11/10/2023 thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang do hoảng sợ nên T3 đã cầm số tiền 500.000 đồng và 63 quân bài tú lơ khơ ném qua cửa sổ xuống rãnh nước sau nhà T.
* Vật chứng thu giữ:
- Thu tại tầng 2 nhà T: 41 quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng, 07 bộ bài tú lơ khơ màu đỏ chưa qua sử dụng, 06 bộ bài tú lơ khơ màu vàng chưa qua sử dụng, 01 chăn màu tím và số tiền 200.000 đồng.
- Thu 63 quân bài tú lơ khơ và số tiền 500.000 đồng tại khu vực rãnh nước phía sau nhà T.
- Thu giữ trên người của các đối tượng tổng số tiền 96.000.000 đồng, và 11 điện thoại di động, cụ thể:
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu đen số Imei: 353102113737719 của Trần Đăng T;
+ Số tiền 32.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei: 354181100749902 của Nguyễn Văn L.
+ Số tiền 6.100.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen số Imei: 356245/04023661/9 của Phạm Trọng H2.
+ Số tiền 19.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh số Imei: 355862/01/662987/9 của Bùi Xuân Th.
+ Số tiền 5.500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh số Imei: 353689089309523 của Bùi Văn C.
+ Số tiền 300.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei: 355839099869184 của Vũ Văn Tr.
+ Số tiền 12.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen số Imei: 352055/02/052342/7 của Trần Anh T3.
+ Số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei: 354492095518222 của Nguyễn Ngọc Ph.
+ Số tiền 4.700.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Dous màu trắng số Imei: 351549/06/382361/2 của Nguyễn Văn T2.
+ Số tiền 3.600.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203 màu đen số Imei: 356107168855974 của Phạm Trọng Th.
+ Số tiền 12.300.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 màu vàng số Imei: 35376108248648/01 của Nguyễn Văn M.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận:
- Trần Đăng T đồng ý cho các đối tượng đánh bạc tại nhà mình với mục đích sau khi chơi xong sẽ thu tiền nước của những người tham gia đánh bạc tại nhà T.
- Nguyễn Văn L mang theo số tiền 30.000.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang L đang thắng số tiền 2.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền 32.000.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 7.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 25.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Phạm Trọng H2 mang theo số tiền 5.800.000 đồng, sử dụng 2.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang H2 đang thắng số tiền 300.000 đồng. Toàn bộ số tiền 6.100.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 2.300.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 3.800.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Trần Anh T3 mang theo số tiền 12.000.000 đồng, sử dụng 2.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang T3 đang hòa tiền. Toàn bộ số tiền 12.000.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 2.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 10.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Nguyễn Ngọc Ph mang theo số tiền 500.000 đồng sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang Ph đang hòa tiền. Toàn bộ số tiền 500.000 đồng dùng để đánh bạc cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ.
- Nguyễn Văn T2 mang theo số tiền 5.000.000 đồng, sử dụng 3.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang T2 đang thua số tiền 300.000 đồng. Toàn bộ số tiền 4.700.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 2.700.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 2.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Bùi Văn C mang theo số tiền 4.700.000 đồng, sử dụng 1.900.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang C đang thắng số tiền 800.000 đồng. Toàn bộ số tiền 5.500.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 2.700.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 2.800.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Nguyễn Văn M mang theo số tiền 9.000.000 đồng, sử dụng 4.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang M đang thắng số tiền 3.300.000 đồng. Toàn bộ số tiền 12.300.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 7.300.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 5.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Bùi Xuân Th mang theo số tiền 18.000.000 đồng, sử dụng 6.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang Th đang thắng số tiền 1.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền 19.000.000 đồng cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ, trong đó có 7.000.000 đồng sử dụng để đánh bạc và 12.000.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
- Phạm Trọng Th mang theo số tiền 3.700.000 đồng sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Th đang thua số tiền 100.000 đồng, còn lại số tiền 3.600.000 đồng dùng để đánh bạc cất trong người đã bị lực lượng Công an thu giữ.
- Vũ Văn Tr mang theo số tiền 500.000 đồng sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Tr đã thua hết số tiền 500.000 đồng mang theo. Lực lượng Công an đã thu giữ số tiền 300.000 đồng của Tr khai nhận nhặt được từ chiếu bạc.
Với nội dung trên, bản Cáo trạng số: 11/CT-VKSQV ngày 02/02/2024 của VKSND thị xã Q đã truy tố Trần Đăng T về tội “Gá bạc” theo điểm b, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự; truy tố Phạm Trọng Th, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Phạm Trọng H2, Trần Anh T3, Vũ Văn Tr, Nguyễn Ngọc Ph về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo đều đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đã đề nghị HĐXX tuyên bố Trần Đăng T phạm tội “Gá bạc”; tuyên bố Phạm Trọng Th, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Phạm Trọng H2, Trần Anh T3, Vũ Văn Tr, Nguyễn Ngọc Ph phạm tội “Đánh bạc”, và đề nghị:
- Áp dụng điểm b, c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Đăng T từ 20 tháng đến 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 40 tháng đến 52 tháng. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Trọng Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng. Miễn hình phạt bổ sung.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 (áp dụng thêm khoản 2 đối với bị cáo H2) Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Phạm Trọng H2, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Trần Anh T3 mỗi bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng. Miễn hình phạt bổ sung.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Vũ Văn Tr và Nguyễn Ngọc Ph mỗi bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Miễn hình phạt bổ sung.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 36.100.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chăn màu tím; 13 bộ bài tú lơ khơ; 104 quân bài tú lơ khơ.
+ Trả lại các bị cáo số tiền 60.600.000 đồng và điện thoại không sử dụng vào việc đánh bạc, nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.
- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện VKSND thị xã Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Vào hồi 11h40’ ngày 11/10/2023, tổ công tác Công an thị xã Q, tỉnh B phối hợp với Công an xã Châu Phong, thị xã Q bắt quả tang tại nhà Trần Đăng T ở thôn Thất Gian, xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B 10 đối tượng đang có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi liêng, gồm: Trần Anh T3, Nguyễn Văn L, Bùi Văn C, Bùi Xuân Th, Vũ Văn Tr, Nguyễn Văn M, Nguyễn Ngọc Ph, Phạm Trọng H2, Phạm trọng Th, Nguyễn Văn T2 với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 36.100.000 đồng. Trần Đăng T là chủ nhà không tham gia đánh bạc nhưng đồng ý cho các đối tượng đánh bạc tại nhà mình, với mục đích sau khi đánh bạc xong sẽ thu tiền của các đối tượng đánh bạc. Do đó, hành vi của Trần Đăng T đã cấu thành tội “Gá bạc” theo điểm b, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự; hành vi của Phạm Trọng Th, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Phạm Trọng H2, Trần Anh T3, Vũ Văn Tr, Nguyễn Ngọc Ph đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
M, L, Th, T2, C, H2, T3, Tr, Ph phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trước khi xét xử bị cáo T đã tự nguyện nộp trước tiền phạt bổ sung. Bị cáo H2 có bố là ông Phạm Trọng Cự tham gia kháng chiến chống Mỹ, được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất. Bị cáo Th có bố là ông Phạm Trọng Bộ được nhà nước tặng thưởng huy chương chiến sỹ vẻ vang. Nên T, H2, Th được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về vai trò và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo:
Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể mà chỉ mang tính chất bột phát. Trần Đăng T cho các bị cáo đánh bạc tại nhà mình để thu tiền, tuy nhiên đến khi bị bắt thì bị cáo chưa thu lợi được gì. Đối với các bị cáo còn lại đánh bạc với số tiền mỗi bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc không lớn. Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội, mà chỉ cần cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T phạm tội nhằm mục đích thu lợi bất chính nên ngoài hình phạt chính cần áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền. Các bị cáo còn lại đều không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với các điện thoại di động đã thu của các bị cáo xét thấy các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên cần trả lại cho các bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.
Đối với số tiền 36.100.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với số tiền 60.600.000 đồng không dùng vào việc đánh bạc cần trả lại cho các bị cáo, nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.
Đối với 01 chiếc chăn màu tím; 13 bộ bài tú lơ khơ; 104 quân bài tú lơ khơ là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Đối với chị Nguyễn Thị Oanh (là vợ của bị can Trần Đăng T) có mặt tại nhà lúc các đối tượng đánh bạc, khi các đối tượng đánh bạc tại nhà của mình thì chị Oanh đang dọn dẹp ở ngoài vườn, không biết việc các đối tượng đánh bạc tại nhà mình. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Trần Đăng T phạm tội “Gá bạc”.
Tuyên bố Phạm Trọng Th, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Phạm Trọng H2, Trần Anh T3, Vũ Văn Tr, Nguyễn Ngọc Ph phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng điểm b, c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trần Đăng T 20 (hai mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 (bốn mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Phạt bổ sung bị cáo T số tiền 20.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước. Xác nhận T đã nộp 10.200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0001506 ngày 27/02/2024 của Chi cục THADS thị xã Q.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Phạm Trọng Th 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 (áp dụng thêm khoản 2 đối với bị cáo H2) Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn L, Bùi Xuân Th, Nguyễn Văn T2, Bùi Văn C, Phạm Trọng H2, Trần Anh T3 mỗi bị cáo 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi tư) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Vũ Văn Tr, Nguyễn Ngọc Ph mỗi bị cáo 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo T, Th, M, L, Th, T2, C, H2, Tr, Ph cho UBND xã Châu Phong, thị xã Q, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo T3 cho UBND phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí M giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chăn màu tím; 13 bộ bài tú lơ khơ; 104 quân bài tú lơ khơ.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 36.100.000 đồng.
Trả lại các bị cáo tài sản sau nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án:
+ Bị cáo T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu đen số Imei: 353102113737719;
+ Bị cáo L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei: 354181100749902 và số tiền 25.000.000 đồng;
+ Bị cáo H2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen số Imei:
356245/04023661/9 và số tiền 3.800.000 đồng;
+ Bị cáo Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh số Imei: 355862/01/662987/9 và số tiền 12.000.000 đồng;
+ Bị cáo C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh số Imei: 353689089309523 và số tiền 2.800.000 đồng;
+ Bị cáo Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei: 355839099869184;
+ Bị cáo T3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen số Imei:
352055/02/052342/7 và số tiền 10.000.000 đồng;
+ Bị cáo Ph 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen số Imei:
354492095518222;
+ Bị cáo T2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Dous màu trắng số Imei: 351549/06/382361/2 và số tiền 2.000.000 đồng;
+ Bị cáo Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203 màu đen số Imei: 356107168855974;
+ Bị cáo M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 màu vàng số Imei: 35376108248648/01 và số tiền 5.000.000 đồng;
Các vật chứng trên theo Biên bản bàn giao vật chứng, tài sản số 38 ngày 31/01/2024 giữa Công an thị xã Q với Chi cục THADS thị xã Q.
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc, gá bạc số 56/2024/HS-ST
Số hiệu: | 56/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về